CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

chủ đề: Ngân hàng Thương mại

  • Duyệt theo:
271 Các nhân tố ảnh hưởng đến đòn bẩy tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam: Kiểm định mô hình SYS-GMM / Mai Thị Hồng, Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Thị Hiền, Nguyễn Thu Thủy // Nghiên cứu kinh tế .- 2022 .- Số 10(533) .- Tr. 107-120 .- 332.12

Nghiên cứu nhằm mục đích đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến đòn bẩy tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2010-2020. Kết quả mô hình SYS-GMM cho thấy có 9/9 giả thuyết các nhân tố ảnh hưởng đến đòn bẩy tài chính của ngân hàng thương mại Việt Nam được chứng minh. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa khoa học và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính của các ngân hàng thương mại.

272 Các yếu tố xác định mức độ công bố thông tin công cụ tài chính của ngân hàng thương mại tại Việt Nam / Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Lê Hữu Thành Tài, Huỳnh Minh Gia Hào, Nguyễn Bảo Trâm, Lê Yến Bình // Jabes - Nghiên cứu kinh tế và kinh doanh châu Á .- 2022 .- Số 10 .- Tr. 86-102 .- 657

Dựa vào các quy định, bằng phương pháp phân tích nội dung, nghiên cứu đã xác định 107 khoản mục FID với 5 nhóm thông tin về: chính sách kế toán, bảng cân đối kế toán, kết quả kinh doanh, công bố phòng ngừa rủi ro và công cụ phái sinh, và công bố đo lường. Mức độ FID trên báo cáo tài chính(BCTC) của 23 NHTM Việt Nam giai đoạn 2016 đến 2020 theo quy định khá thấp (41%), khá khác biệt giữa các ngân hàng và một số quy định bị bỏ qua. Nghiên cứu chứng minh chất lượng kiểm toán và quy mô có ảnh hưởng cùng chiều, trong khi sở hữu nhà nước và quy mô hội đồng quản trị ảnh hưởng ngược chiều đến FID của NHTM Việt Nam.

274 Ảnh hưởng của chỉ số mức độ phát triển công nghệ thông tin và truyền thông đến lợi nhuận của ngân hàng thương mại Việt Nam / Nguyễn Hữu Mạnh, Vương Thị Hương Giang // Kinh tế & phát triển .- 2022 .- Số 304 .- Tr. 89-98 .- 332.12

Nghiên cứu này kiểm tra tác động của gia tăng đầu tư phát triển ICT đến lợi nhuận của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam giai đoạn 2009-2020. Kết quả cho thấy chỉ số ICT tổng hợp và các chỉ số thành phần gồm: đầu tư cơ sở hạ tầng, đầu tư nguồn lực, dịch vụ thông tin có tác động tích cực đáng kể đến lợi nhuận của các ngân hàng thương mại Việt Nam, trong khi chỉ số ứng dụng công nghệ lõi có tác động ngược lại. Phát hiện này cho thấy việc đầu tư vào ICT của các ngân hàng thương mại Việt Nam là cần thiết trong bối cảnh chuyển đổi số và phát triển kinh tế số hiện nay.

275 Vai trò phát triển vốn trí tuệ đối với tăng trưởng cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam / Lữ Hữu Chí, Nguyễn Văn Thích, Lương Thị Thu Thủy // Ngân hàng .- 2022 .- Số 20 .- Tr. 09-14 .- 332.12

Dựa trên dữ liệu của 26 ngân hàng thương mại (NHTM) trong nước giai đoạn 2006 - 2020, bằng chứng thực nghiệm cho thấy ảnh hưởng tích cực đáng kể của phát triển vốn trí tuệ đến tăng trưởng cho vay của NHTM Việt Nam. Mức độ tác động này dường như rõ rệt hơn ở các ngân hàng nhỏ so với các ngân hàng lớn.

276 Ảnh hường của thu nhập ngoại bảng đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại / Mai Thị Hồng // .- 2022 .- Số 786 .- Tr. 84-87 .- 332.12

Dựa trên cơ sở lý thuyết, nghiên cứu xây dựng mô hình SYS GMM tác động hoạt động ngoại bảng đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại giai đoạn 2012-2020. Kết quả nghiên cứu chỉ ra biến hoạt động ngoại bảng có tác động tích cực tới việc gia tăng khả năng sinh lời các ngân hàng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu, quy mô ngân hàng, lạm phát tác động tích cực đến tỷ suất lợi nhuận tài sản. Trên cơ sở tá giả đề xuất các giải pháp đối với tài sản ngoại bảng nâng cao khả năng sinh lời cua các ngân hàng thương mại.

277 Sự hiện diện của ngân hàng nước ngoài và những ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam / Vũ Minh Long // .- 2022 .- Số 786 .- Tr. 88-91 .- 332.12

Bài viết nhằm xác định sự hiện diện của ngân hàng thương mại đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu bằng phương pháp bình phương tổng quát cho thấy sự hiện diện của các ngân hàng nước ngoài có tác động ngược chiều đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại. Kết quả nghiên cứu chỉ ra tăng trưởng tín dụng và quy mô ngân hàng cso tác động cùng chiều đến hiệu quả của ngân hàng nhưng nợ xấu cho kết quả ngược lại.

278 Phát triển ngân hàng xanh tại một số quốc gia và bài học cho các ngân hàng thương mại Việt Nam / Trần Thị Lương Bình, Nguyễn Thị Hương // Tài chính .- 2022 .- Số 786 .- Tr. 22-25 .- 332.12

Phát triển kinh tế bền vững là xu hướng phát triển chung của các quốc gia trên thế giới. Cùng với mục tiêu tăng trưởng xanh và bền vững thì việc hướng tới xây dựng và phát triển ngân hàng xanh của Việt Nam là yêu cầu cấp thiết. Ngân hàng xanh là chiến lược quan trọng trong định hướng phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên việc phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam diễn ra con nhiều khó khăn. Bài viết phân tích triển khai ngân hàng xanh tại một số quốc gia trên thế giới, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho ngân hàng thương mại Việt Nam.

279 Tác động từ vốn chủ sở hữu đến rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam / Nguyễn Thanh Nhã, Nguyễn Thanh Tường // .- 2022 .- Số 785 .- Tr. 26-29 .- 332.12

Thực hiện ước lượng bằng phương pháp GMM trên dữ liệu của 28 ngân hàng thương mại tại Việt Nam giai đoạn 2009-2019, nghiên cứu đánh giá tác động của vốn chủ sở hữu đến rủi ro tín dụng của ngân hàng thông qua 2 chỉ số, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay và dự phòng đến rủi ro tín dụng trên dư nợ cho vay. Kết quả cho thấy, bên cạnh mức độ cạnh tranh ngành, tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát thì vốn sở hữu có tác động ngược chiều đáng kể đến nợ xấu và dự phòng rủi ro của tín dụng ngân hàng.

280 Các nhân tố ảnh hưởng tới ý định gây ra rủi ro đạo đức của người lao động tại ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam / Đỗ Hoài Linh, Khúc Thế Anh // Kinh tế & phát triển .- 2022 .- Số 303 .- Tr. 34-44 .- 658

Bài viết này tập trung vào rủi ro đạo đức và các nhân tố ảnh hưởng đến ý định gây ra rủi ro đạo đức của người lao động trong các ngân hàng thương mại cổ phần. Bằng việc kết hợp mô hình lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB) và lý thuyết quy kết, chúng tôi đã gửi bảng hỏi đến các cá nhân hiện đang làm việc trong ngành ngân hàng. Kết quả cho thấy: rủi ro và cơ chế xử phạt của ngân hàng có tác động ngược chiều, trong khi khả năng giám sát, lợi ích khi thực hiện hành vi, mức độ nghiêm trọng và ảnh hưởng danh tiếng có tác động cùng chiều đến ý định gây ra rủi ro đạo đức của người lao động tại các ngân hàng thương mại cổ phần. Dựa trên kết quả nghiên cứu, chúng tôi cho rằng các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam cần đưa ra các quy chuẩn làm việc cho người lao động nhằm tăng tính cụ thể của công việc, cũng như đề ra văn hóa kinh doanh hướng đến việc tránh các hành vi lệch chuẩn.