CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

Khoa Xây Dựng

  • Duyệt theo:
1 Nghiên cứu móng bè kết hợp cọc để đưa ra giải pháp móng hiệu quả cho nhà cao tầng xây dựng trong đô thị ở Việt Nam / Phạm Trung Hiếu, Đặng Xuân Trường // Xây dựng .- 2025 .- Số 7 .- Tr. 74 - 77 .- 690

Bài báo trình bày nghiên cứu về hiệu quả kỹ thuật và kinh tế của móng bè kết hợp cọc (Piled Raft Foundation - PRF) áp dụng cho nhà cao tầng xây dựng trên nền đất yếu trong đô thị Việt Nam. Trên cơ sở tổng hợp lý thuyết và các phương pháp tính toán (bán kinh nghiệm và mô hình số), nhóm tác giả sử dụng phần mềm SAFE để mô phỏng ba phương án móng: móng cọc, móng bè và móng bè cọc. Mô hình công trình là tòa nhà 11 tầng có tầng hầm đặt trên nền đất yếu tại TP.HCM. Kết quả phân tích cho thấy phương án PRF giúp giảm độ lún đến 70% so với móng bè, tiết kiệm 42,6% bê tông và 16,7% thép so với móng cọc. Ngoài ra, PRF còn đảm bảo khả năng thi công trong điều kiện xây chen và giảm ảnh hưởng đến công trình lân cận. Nghiên cứu đề xuất áp dụng PRF như một giải pháp móng hiệu quả về mặt kỹ thuật và kinh tế trong xây dựng công trình cao tầng tại đô thị Việt Nam, đồng thời kiến nghị cập nhật tiêu chuẩn thiết kế nền móng cho phù hợp với điều kiện địa chất trong nước.

2 Ảnh hưởng một số tham số của neo đến hệ số ổn định tổng thể mái dốc / Nguyễn Minh Khoa, Đỗ Minh Ngọc, Trịnh Minh Hoàng // Xây dựng .- 2025 .- Số 7 .- Tr. 90 - 93 .- 690

Bài báo thông qua việc thay đổi góc nghiêng của neo và chiều dài đoạn neo giữ tiến hành khảo sát sự ảnh hưởng của hai tham số này đến hệ số ổn định mái dốc. Kết quả khảo sát cho thấy chiều dài đoạn neo giữ nên bằng 1/2 chiều dài thân neo và góc nghiêng nằm trong khoảng 100 đến 200 là phù hợp. Đây là những tham số quan trọng ảnh hưởng nhiều đến hệ số ổn định, do vậy khi thiết kế nên xem xét đến để công trình đạt được yêu cầu và hiệu quả.

3 Giảm thiểu phát thải và chỉ số tiêu thụ năng lượng của bê tông nhiều tro bay ở Việt Nam / Nguyễn Thanh Sang, Nguyễn Tuấn Anh, Nguyễn Thanh Vũ // Xây dựng .- 2025 .- Số 7 .- .- 624

Bài báo trình bày nghiên cứu sử dụng tro bay (FA) với hàm lượng cao (25 - 50%) để thay thế chất kết dính (CKD) trong bê tông xi măng dùng cho các khối bê tông kết cấu tại Việt Nam. Các thí nghiệm được thực hiện để lựa chọn xi măng, cốt liệu, phụ gia siêu dẻo và tro bay để chế tạo bê tông có độ sụt 10 - 12 cm và cường độ chịu nén từ 30 - 40 MPa. Kết quả cho thấy bê tông nhiều tro bay (HVFA) không chỉ đáp ứng yêu cầu kỹ thuật mà còn giảm đáng kể phát thải khí nhà kính lên đến 31% và chỉ số tiêu thụ năng lượng giảm đến 38%. Đặc biệt, tiềm năng kết hợp FA với các CKD phụ thêm khác như xỉ lò cao nghiền mịn (GGBS) hoặc silica fume (SF) để cải thiện tính chất cơ học và độ bền. Nghiên cứu cũng phân tích các yếu tố ảnh hưởng như vận chuyển FA và đề xuất giải pháp tối ưu hóa ứng dụng HVFA tại Việt Nam, hứa hẹn thúc đẩy phát triển bền vững trong ngành Xây dựng.

4 Giải pháp thiết kế thông hơi hiệu quả trong nhà cao tầng / Nguyễn Phương Thảo // Xây dựng .- 2025 .- Số 7 .- Tr. 102 - 105 .- 624

Bài báo này tập trung nghiên cứu và phân tích các bất cập trong hệ thống thông hơi hiện nay, đồng thời đề xuất các giải pháp thiết kế thông hơi hiệu quả nhằm đảm bảo tính bền vững, an toàn và nâng cao chất lượng sống trong công trình.

5 Độ lún của móng cọc có xét ảnh hưởng của các móng lân cận / Bùi Trường Sơn, Lâm Ngọc Quí, Lê Tiến Nghĩa // .- 2025 .- Số 1 .- .- 624

Sử dụng phương pháp móng khối quy ước và mô phỏng bằng phần mềm Plaxis 3D, bài báo đề cập đến độ lún của móng cọc có xét ảnh hưởng của các móng lân cận. Đối với cọc ma sát có chiều dài lớn hơn 30m trong nền cát , kết quả tính toán theo phương pháp móng khối quy ước cho thấy độ lún của móng cọc có thể tăng đến 44,7% khi chịu ảnh hưởng của các móng lân cận bao quanh trong khi kết quả mô phỏng cho thấy độ lún gia tăng đến 150%. Móng có số cọc như nhau bố trí trong phạm vi 3 lần bề rộng móng có thể gây độ lún bổsung đáng kể. Kết quả mô phỏng cho thấy phạm vi vùng ảnh hưởng gây lún bổ sung các móng lân cận chủ yếu tập trung ở dọc theo thân cọc và giảm dần theo độ sâu, khác với phương pháp móng khối quy ước xem vùng ảnh hưởng chịu lún chỉ trong phạm vi nền dưới mũi cọc. Kết quả phân tíchcó thể giúp bổ sung phương pháp dự tính độ lún móng cọc hay bố trí móng cọc phù hợp hơn khi thiết kế

6 Nghiên cứu tác động của dòng thấm đến sức kháng ma sát cọc / Phan Thành Chiến, Nguyễn Minh Đức // Xây dựng .- 2025 .- Số 1 .- Tr. 136 - 141 .- 624

Nghiên cứu này xem xét tác động của dòng thấm lên sức kháng ma sát của cọc bằng cách sử dụng mô hình thí nghiệm hố đào tường vây thu nhỏ. Thông qua các điều kiện thí nghiệm khác nhau về độ sâu hố đào và mực nước ngầm, sức kháng ma sát của cọc được đánh giá dựa trên phương pháp phân tích ứng suất hiệu quả kết hợp với đo áp lực nước lỗ rỗng và phương pháp đo trực tiếp. Kết quả nghiên cứu cho thấy dòng thấm làm giảm đáng kể sức kháng ma sát của các cọc phía trong hố đào gần tường vây, và hiệu ứng này giảm dần khi khoảng cách đến tường tăng lên. Các yếu tố chính ảnh hưởng đến hiện tượng này bao gồm vị trí cọc, gradient thủy lực, độ sâu hố đào và độ sâu chôn cọc. Mức giảm sức kháng ma sát lớn nhất quan sát được là 91,23%. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đề xuất mối tương quan thực nghiệm giữa vị trí cọc, sự giảm ma sát và các hệ số an toàn chống hiện tượng thoát nước ngầm, cung cấp những thông tin quan trọng cho việc thiết kế các hố đào sâu ổn định.

7 Nghiên cứu tính chất của vữa geopolymer gốc tro bay kết hợp với tro bã mía / // Xây dựng .- 2025 .- Số 1 .- Tr. 136 - 141 .- 624

Nghiên cứu sản xuất vật liệu địa trùng hợp như một giải pháp giảm phát thải CO₂ từ ngành xi măng Portland, góp phần xây dựng bền vững. Biến đổi khí hậu và hiện tượng nóng lên toàn cầu là động lực chính để nghiên cứu vật liệu địa trùng hợp. Bài báo này đánh giá ảnh hưởng của tro bã mía (SCBA) đến các tính chất của vữa địa trùng hợp gốc tro bay có hàm lượng canxi thấp. Năm hỗn hợp vữa địa trùng hợp đã được chế tạo bằng cách thay thế tro bay bằng SCBA ở mức 0%, 5%, 10%, 15% và 20% theo khối lượng. Ngoài ra, một hỗn hợp vữa xi măng Porland đã được chuẩn bị để so sánh. Các cuộc điều tra thực nghiệm tập trung vào việc đánh giá khối lượng thể tích khô, khả năng hấp thụ nước, độ xốp, cường độ nén, cường độ uốn của các mẫu. Kết quả chỉ ra rằng vữa địa trùng hợp thể hiện các tính chất cơ học vượt trội so với vữa xi măng Porland. Bổ sung 5%-10% SCBA theo khối lượng vào hỗn hợp địa trùng hợp được xác định là tỷ lệ phù hợp, đạt được cường độ nén và độ bền cao. Hơn nữa, nghiên cứu đã tìm thấy mối tương quan giữa các đặc tính của vữa thu được và thành phần hóa học và hình thái của vật liệu ban đầu. Những phát hiện này làm nổi bật tiềm năng của SCBA như một tiền chất có lợi trong hỗn hợp geopolymer, tăng cường cả tính bền vững về môi trường và hiệu suất của vật liệu xây dựng.

8 Đánh giá khuyết tật cọc khoan nhồi theo vận tốc sóng siêu âm / Nguyễn Ngọc Thắng, Trần Thị Phương Lan // Xây dựng .- 2025 .- Số 1 .- Tr. 212 - 216 .- 624

Phương pháp thí nghiệm siêu âm bê tông nhờ việc đo vận tốc sóng âm truyền trong bê tông là một phương pháp được sử dụng phổ biến trên Thế giới cũng như ở Việt Nam hiện nay để đánh giá chất lượng bê tông sau khi thi công. Nguyên lý của phương pháp này dựa chủ yếu vào vận tốc âm truyền trong bê tông nên cho kết quả thí nghiệm c ó đ ộ chính xác khá cao, giá thành hợp lý; phương pháp thí nghiệm và vận hành thiết bị đơn giản, phương pháp này cũng đã được quy định cụ thể trong các tiêu chuẩn hiện hành. Tuy nhiên với cọc khoan nhồi việc xác định và đánh giá khuyết tật bê tông từ kết quả siêu âm cọc cũng có những sai lệch khác nhau, phụ thuộc nhiều vào quan điểm tính toán cũng như kinh nghiệm của người thực hiện. Trong bài báo này tác giả trình bày tổng quan cơ sở lý thuyết, yêu cầu và chỉ dẫn kỹ thuật của phương pháp thí nghiệm siêu âm truyền qua hai ống; ngoài ra dựa trên kết quả thực tế thí nghiệm siêu âm cọc tại hai dự án, tại Cầu Giấy và tại Long Biên, Hà Nội cho những kết quả khác nhau về độ đồng nhất của bê tông. Từ kết quả thực nghiệm này, việc đánh giá khuyết tật, dự đoán cường độ bê tông cọc dựa trên vận tốc sóng siêu âm thu được cũng được kiến nghị đưa ra.

9 Ảnh hưởng của các mô hình ứng xử vật liệu đến biến dạng và ứng suất của cột ngắn bê tông cốt thép chịu nén lệch tâm / Nguyễn Thành Quí, Lê Đức Tuấn // Xây dựng .- 2025 .- Số 1 .- Tr. 206 - 211 .- 624

Bài báo phân tích ảnh hưởng của các mô hình ứng xử vật liệu đến biến dạng và ứng suất của cột ngắn bê tông cốt thép. Kết quả phân tích làm rõ sự làm việc của cột ngắn bê tông cốt thép trong từng trường hợp mô hình ứng xử của vật liệu bê tông và cốt thép cụ thể. Hai mô hình ứng xử của vật liệu bê tông và bốn mô hình ứng xử của vật liệu cốt thép được phân tích thông qua việc mô phỏng bằng phần mềm CSiCol với kết cấu cột dùng trong phân tích là cột ngắn, chịu nén bởi lực tập trung lệch tâm. Kết quả phân tích cho thấy biến dạng và ứng suất trong bê tông và cốt thép sẽ khác nhau đối với từng mô hình ứng xử của vật liệu bê tông và cốt thép. Điều này nêu bật tầm quan trọng của việc lựa chọn mô hình ứng xử của vật liệu khi phân tích và đánh giá cột ngắn bê tông cốt thép chịu tải trọng.

10 Giám sát sự thay đổi không gian xanh đô thị sử dụng dữ liệu Sentinel-2 MSI đa thời gian tại tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam / Lê Kim Thư, Lê Kim Bảo, Lê Văn Phú // Xây dựng .- 2025 .- Số 1 .- Tr. 202 - 205 .- 624

Không gian xanh đô thị đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện môi trường đô thị, nâng cao chất lượng cuộc sống và đóng góp vào sự phát triển bền vững của đô thị. Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa nhanh chóng đã dẫn đến những thay đổi đáng kể về diện tích đất, đặc biệt là sự suy giảm của đất không gian xanh đô thị. Nghiên cứu này sử dụng hình ảnh vệ tinh Sentinel-2 và các thuật toán học máy nhằm giám sát và phân tích sự thay đổi của không gian xanh đô thị tại thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hoá, Việt Nam. Dữ liệu Sentinel-2 với độ phân giải không gian cao và khả năng đa thời gian đã được xử lý để tính toán các chỉ số thực vật bao gồm NDVI, NDWI, NDBI, BUI và SAVI. Tiếp theo, các tác giả đã sử dụng hai thuật toán học máy là Random Forest (RF) và Support Vector Machine (SVM) để phân loại các đối tượng vào ba nhóm: thực vật, phi thực vật và mặt nước. Trong đó, kết quả phân loại chính xác nhất đã được sử dụng để phân loại lại khu vực thành hai nhóm: không gian xanh đô thị (thực vật) và đối tượng khác (phi thực vật và mặt nước). Phân đoạn đã được thực hiện bằng thuật toán Simple Non-Iterative Clustering (SNIC) để hiệu chỉnh các ranh giới đối tượng. Phân tích cho thấy những thay đổi đáng kể trong không gian xanh đô thị theo thời gian, làm nổi bật tác động của sự mở rộng đô thị đối với phân bố không gian xanh. Đồng thời, những phát hiện này cung cấp những thông tin về sự phát triển và suy thoái của không gian xanh trong các khu đô thị. Kết quả nghiên cứu có thể giúp các nhà hoạch định chính sách và các nhà quy hoạch đô thị xây dựng các chiến lược phát triển đô thị bền vững, đảm bảo sự cân bằng giữa đô thị hóa và bảo tồn môi trường tại thành phố Thanh Hóa và các khu vực đô thị tương tự.