CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

chủ đề: Ngân hàng Thương mại

  • Duyệt theo:
131 Kinh nghiệm quốc tế về phát triển nhân lực hải quan và bài học đối với Việt Nam / Phạm Duy Khánh // .- 2023 .- K2 - Số 254 - Tháng 12 .- Tr. 52-54 .- 658

Dựa trên mẫu nghiên cứu 27 NHTM, tác giả đã đưa ra các khuyến nghị nhằm thúc đẩy tăng trưởng bền vững của các NHTM niêm yết tại Việt Nam thời gian tới.

132 Chất lượng công bố số liệu rủi ro thị trường tại các ngân hàng thương mại trên thế giới trước, trong / Trần Mạnh Hà // .- 2023 .- K2 - Số 254 - Tháng 12 .- Tr. 92-96 .- 658

Nghiên cứu tìm thấy bằng chứng cho thấy các ngân hàng cố tình bóp méo số liệu rủi ro thị trường bằng cách phóng đại ước lượng giá trị chịu rủi ro của danh mục đầu tư. Nghiên cứu cũng đưa ra quan điểm rằng khung kiểm định rủi ro thị trường chỉ dựa trên số lượng vi phạm VaR mà bỏ qua mức độ nghiêm trọng của vi phạm sẽ không phản ánh đầy đủ bức tranh rủi ro của ngân hàng.

133 Nhân tố tác động đến quyết định lựa chọn dịch vụ ngân hàng trực tuyến tại Việt Nam / Đoàn Thị Cẩm Thư, Lê Hoàng Anh, Phạm Thị Tình Thương // .- 2023 .- Số 814 .- Tr. 102-105 .- 332.12

Bài viết nghiên cứu tác động của các nhân tố đến quyết định lựa chọn sử dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến của khách hàng cá nhân tại Việt Nam. Trên cơ sở khảo sát 417 khách hàng đã và đang sử dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến ở TP. Hồ Chí Minh, TP. Đà Nẵng và TP. Hà Nội, kết quả nghiên cứu cho thấy, Nỗ lực kỳ vọng (EE), Hiệu quả kỳ vọng (PE), Hình ảnh thương hiệu (BIm) và Ảnh hưởng xã hội (SI) có ảnh hưởng tích cực đến ý định hành vi lựa chọn dịch vụ ngân hàng trực tuyến, trong khi đó Rủi ro cảm nhận (PR) và Chi phí cảm nhận (PC) có tác động tiêu cực. Đồng thời, trải nghiệm khách hàng cũng có ảnh hưởng tích cực đến ý định hành vi và quyết định lựa chọn dịch vụ ngân hàng trực tuyến... Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả đưa ra một số hàm ý chính sách cho các ngân hàng thương mại Việt Nam trong việc thúc đẩy dịch vụ ngân hàng trực tuyến của khách hàng cá nhân.

134 Thực trạng hoạt động mua, bán nợ tại ngân hàng thương mại và một số kiến nghị hoàn thiện / Trần Linh Huân, Nguyễn Thị Kim Anh, Phạm Thị Hồng Tâm, Đỗ Thị Lan Anh // .- 2023 .- Số 24 - Tháng 12 .- Tr. 10-17 .- 332.12

Hoạt động mua, bán nợ của ngân hàng thương mại (NHTM) ở Việt Nam đang dần hình thành như một sự cần thiết khách quan của phát triển nền kinh tế. Hoạt động mua, bán nợ là một lĩnh vực rất mới ở Việt Nam hiện nay, nhưng thực chất nó là một hoạt động kinh tế rất cơ bản trong các NHTM. Tuy nhiên, trong thời gian qua, thị trường mua, bán nợ vẫn chưa thực sự phát triển và thiếu sự cạnh tranh giữa các bên mua nợ, kinh nghiệm xử lí nợ chưa cao, chưa đáp ứng được kì vọng của thị trường với lượng nợ xấu cần xử lí rất lớn, điều này phần nào khiến cho nhu cầu mua, bán nợ của các NHTM có nợ xấu bị giảm, kìm hãm sự phát triển của thị trường mua, bán nợ của NHTM. Xuất phát từ đó, bài viết tập trung làm rõ thực trạng, phân tích đánh giá một số quy định pháp luật điều chỉnh về hoạt động mua, bán nợ của NHTM, từ đó đưa ra một số định hướng, kiến nghị hoàn thiện cho việc phát triển hoạt động này tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

135 Thẩm quyền để xử lí ngân hàng đang đổ vỡ một cách nhanh chóng và kịp thời - Nhìn từ kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam / Tạ Quang Đôn // .- 2023 .- Số 24 - Tháng 12 .- Tr. 45-50 .- 340.3324

Trong năm vừa qua, chúng ta đã chứng kiến rất nhiều vụ sụp đổ của những ông lớn trong lĩnh vực ngân hàng, điều này dấy lên hồi chuông cảnh báo về tính chất dễ đổ vỡ của ngân hàng. Việc một ngân hàng đổ vỡ thể hiện kỉ luật thị trường đối với những ngân hàng có hoạt động kinh doanh thiếu an toàn, lành mạnh nhưng lại tạo ra nhiều hệ lụy cho nền kinh tế, ảnh hưởng đến niềm tin của công chúng và người gửi tiền. Do vậy, cơ quan quản lí nhà nước cần phải có những công cụ để hài hòa hóa mối quan hệ này, vừa tăng trách nhiệm của chủ sở hữu, cổ đông và người có liên quan của ngân hàng, vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và chủ nợ của ngân hàng đó. Để làm được điều này, cơ quan quản lí cần có những thẩm quyền cho phép xử lí ngân hàng một cách nhanh chóng, kịp thời nhằm giúp cho các ngân hàng giải quyết được khó khăn trước mắt, không để cho tình trạng khó khăn của ngân hàng trở nên trầm trọng hơn. Bài viết làm rõ một số trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã xử lí đối với các ngân hàng lớn trong thời gian gần đây nhằm đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện pháp luật về xử lí ngân hàng yếu kém.

136 Tác động từ dịch vụ ngân hàng số đến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại / Phan Thị Hằng Nga, Đoàn Thị Thủy // .- 2023 .- Số 814 .- Tr. 79-83 .- 332.12

Nghiên cứu này phân tích tác động của dịch vụ ngân hàng số đến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu này, tác giả đã sử dụng phương ước lượng mô hình FGLS (Feasible Generalized Least Squares) dựa trên dữ liệu thứ cấp của 23 ngân hàng thương mại tại Việt Nam trong giai đoạn 2010-2022. Kết quả nghiên cứu cho thấy, dịch vụ ngân hàng số có quan hệ cùng chiều và có tác động đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại trong mẫu quan sát. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất hàm ý chính sách cho các ngân hàng thương mại nâng cao hiệu quả kinh doanh.

137 Đầu tư công nghệ thông tin và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam / Nguyễn Thanh Quang, Hồ Thủy Tiên // .- 2023 .- Số 815 - Tháng 12 .- Tr. 36-40 .- 332.04

Bài viết đánh giá tác động từ đầu tư công nghệ thông tin đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam qua việc sử dụng mẫu quan sát gồm 25 ngân hàng thương mại trong giai đoạn 2009 - 2022 và sử dụng phương pháp hồi quy System GMM. Để đo lường hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại, nhóm tác giả sử dụng chỉ số tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) và tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE). Kết quả nghiên cứu cho thấy, đầu tư công nghệ thông tin tác động cùng chiều và có ý nghĩa thống kê ở mức 1% đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

138 Giám sát tài chính an toàn vi mô đối với ngân hàng thương mại / Phạm Thị Quyên, Hoàng Thị Thu Hường, Nguyễn Vũ Anh Quân // .- 2023 .- K1 - Số 253 - Tháng 12 .- Tr. 18-22 .- 332.1

Trong hệ thống tài chính quốc gia, ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính trung gian hoạt động trong thị trường tài chính. Ngân hàng thương mại đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia, ngân hàng thương mại có tác động chi phối đến tất cả các khu vực trong hệ thống tài chính. Vì vậy, cơ quan quản lý chức năng cần giám sát tài chính đối với ngân hàng thương mại để đảm bảo sự tuân thủ đúng, đủ các quy định về an toàn tài chính và kiểm soát rủi ro tài chính. Giám sát tài chính đối với ngân hàng thương mại (NHTM) bao gồm giám sát tài chính an toàn vi mô và giám sát tài chính an toàn vĩ mô. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chủ yếu bàn về về giám sát tài chính an toàn vi mô.

139 Tác động của lãnh đạo chuyển đổi tới hành vi làm việc đổi mới công việc tại các ngân hàng thương mại Việt Nam: Vai trò trung gian của môi trường đổi mới / Phạm Thu Trang // .- 2023 .- K1 - Số 253 - Tháng 12 .- Tr. 55-59 .- 658

Kết quả nghiên cứu cho thấy lãnh đạo chuyển đổi tác động tích cực đến môi trường đổi mới. Bên cạnh đó, môi trường đổi mới tác động tích cực đến hành vi công việc đổi mới. Cuối cùng môi trường đổi mới là trung gian toàn bộ cho lãnh đạo chuyển đổi và hình thành ý tưởng trong khi là trung gian một phần trong mối quan hệ giữa lãnh đạo chuyển đổi và thúc đẩy ý tưởng và hiện thực hóa ý tưởng.

140 Thực trạng hoạt động của các ngân hàng thương mại / Nguyễn Hữu Chung // .- 2023 .- Số 648 - Tháng 12 .- Tr. 4-8 .- 332.04

Đại dịch Covid-19 ảnh hưởng chủ yếu trong giai đoạn 2020-2022 tới không chỉ hoạt động tín dụng mà còn tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Bài viết thực hiện nghiên cứu thực trạng hoạt động của 27 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2017-2022. Kết quả cho thấy các ngân hàng thương mại Việt Nam được nghiên cứu đã đạt được những thành tựu đáng kể ngay cả trong giai đoạn tác động của đại dịch. Hoạt động tín dụng và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng vẫn được duy trì ở một tỉ lệ tích cực.