CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

chủ đề: Doanh nghiệp

  • Duyệt theo:
591 Đào tạo tiếng anh doanh nghiệp tại trường đại học đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế / Quản Thị Hoàng Anh // Tài chính - Kỳ 1 .- 2019 .- Số 708 .- Tr.140 – 142 .- 658

Cùng với hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang là một trong những quốc gia tiên phong tham gia hầu hết các cộng đồng, tổ chức kinh tế - tài chính và hàng loạt hiệp định thương mại tự do mang tính toàn cầu. Trong bối cảnh đó, việc đào tạo tiếng anh doanh nghiệp là giải pháp mang tính thực tiễn và bền vững để cải thiện hiệu quả công việc của nhân sự, tăng tính cạnh tranh cho doanh nghiệp. Do vậy, nhu cầu được đào tạo ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh cho các đối tượng tại các doanh nghiệp ngày càng nhiều. Trong xu thế đó, nhiều trường chuyên ngành kinh tế - tài chính đều đào tạo chuyên ngành ngoại ngữ.

592 Phân tích năng lực xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp hữu cơ các doanh nghiệp Việt Nam / Phan Thu Trang, Mai Thanh Huyền // Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương .- 2020 .- Số 562 .- Tr. 91-93 .- 658

Bài báo trước tiên xây dựng khung lý thuyết về năng lực xuất khẩu (NLXK) sản phẩm nông nghiệp hữu cơ của các doanh nghiệp Việt Nam. Khung lý thuyết phân tích gồm 03 phần chính: các năng lực thành phần trong (NLXK); các yếu tố tác động đến NLXK; các chỉ tiêu đánh giá NLXK.

593 EVFTA: Cơ hội và khả năng tận dụng của doanh nghiệp Việt Nam / Nguyễn Văn Hưng // Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương .- 2020 .- Số 561 .- Tr. 62-64 .- 658

Chiều 12/2/2020, Nghị viện châu Âu (EP) đã bỏ phiếu thông qua Hiệp định Thương mại tự do giữa Liên minh châu Âu (EU) và Việt Nam - EVFTA và Hiệp định Bảo hộ đầu tư (EVIPA). Sau khi được Nghị viện châu Âu phê chuẩn, Hiệp định EVFTA cần được Hội đồng châu Âu phê duyệt để có hiệu lực. Về phía Việt Nam, sau khi được Quốc hội Việt Nam thông qua, EVFTA sẽ ngay lập tức có hiệu lực. Còn Hiệp định EVIPA phải được sự phê chuẩn của cả Nghị viện châu Âu và Nghị viện của tất cả 27 nước thành viên EU mới có hiệu lực.

594 Hoạt động đầu tư nghiên cứu và phát triển và tiền năng của các doanh nghiệp Ba Lan / Đinh Mạnh Tuấn // .- 2020 .- Số 8(239) .- Tr. 37-46 .- 330

Phân tích những kết quả tích cực cũng như những hạn chế trong hoạt động đầu tư cho R&D của Ba Lan, tiềm năng tận dụng những thành quả của R&D đối với các doanh nghiệp nước này và đưa ra một số khuyến nghị đối với Việt Nam

595 Thúc đẩy chuyển đổi số trong các doanh nghiệp Việt Nam trước tác động của đại dịch Covid - 19 / Chu Văn Huy // Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương .- 2020 .- Số 566 .- Tr. 13-15 .- 658

Đại dịch Covid - 19 đã có tác động lớn tới bức tranh kinh tế của mỗi quốc gia. Việ các chính phủ ban hành các lệnh thực hiện giãn cách xã hội, phong tỏa, nhiều doanh nghiệp và đặc biệt là sự thay đổi lớn về hành vi của người tiêu dùng.

596 Sau covid 19: Việt Nam có nhiều lợi thế để thu hút FDI / Nguyễn Thị Thanh Hương // Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương .- 2020 .- Số 566 .- Tr. 16-18 .- 658

Covid - 19, tên chính thức của loại dịch bệnh, đã ảnh hưởng đến hầu hết các lĩnh vực trong đời sống và ảnh hưởng đến hầu khắp các quốc gia trên thế giới. Ngoài những ảnh hưởng về đời sống xã hội, về chính trị thì kinh tế là lĩnh vực chịu ảnh hưởng tương đối nặng nề.

597 Tác động của đãi ngộ nhân sự đến động lực làm việc của người lao động tại Công ty Cổ phần Diana Unicharm trên địa bàn thành phố Hà Nội / Lê Đức Thủy // Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương .- 2019 .- Số 542 .- Tr. 54-56 .- 658

Nghiên cứu đánh giá tác động của đãi ngộ nhân sự đến động lực làm việc của người lao động tại doanh nghiệp Diana Unicharm trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từu dữ liệu khảo sát 291 người lao động tại doanh nghiệp hiện nay, kết quả kiểm định bằng phương pháp hồi quy bội cho thấy hệ thống khen thưởng nghề nghiệp có tác động tích cực đến động lực làm việc của người lao động tại doanh nghiệp này.

598 Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị thương hiệu của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch và lữ hành tại tỉnh Bình Định / Nguyễn Bá Phước // Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương .- 2019 .- Số 542 .- Tr. 98-100 .- 658

Bằng phương pháp phân tích nhân tố khám phá (FEA) và hồi quy tuyến tính bội, tác giả đã nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị thương hiệu của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch và lữ hành tại Bình Định. Với việc kết hợp giữa phương pháp nghiên cứu định lượng, tác giả đã tiến hành khảo sát 358 khách du lịch có sử dụng dịch vụ của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch và lữ hành tại Bình Định. Kết quả nghiên cứu cho nhân tố: "Nhận biết thương hiệu", "Chất lượng cảm nhận", "Lòng trung thành thương hiệu" và "Thái độ đối với chiêu thị" có ảnh hưởng đến giá trị thương hiệu của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch và lữ hành tại Bình Định; trong đó, nhân tố " Nhận biết thương hiệu" có tác động mạnh nhất. Đây chính là cơ sở quan trọng để các doanh nghiệp xem xét các chính sách và dịch vụ của mình, từ đó định vị được thương hiệu và nâng cao giá trị thương hiệu nhằm thu hút nhiều khách hàng.

599 Phân tích tài chính tại Công ty Cổ phần Gang thép Thái Nguyên / Trần Thị Ngọc Linh, Nguyễn Thị Kim Anh // Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương .- 2019 .- Số 542 .- Tr. 104-105 .- 658

Thái Nguyên được coi là cái nôi của ngành công nghiệp luyện kim Việt Nam với công ty Cổ phần Gang thép Thái Nguyên (TISCO). Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, TISCO đã khẳng định được vai trò và đóng góp một phần đáng kể cho sự phát triển ngành công nghiệp tỉnh Thái Nguyên nói riêng và Việt Nam nói chung, tạo việc làm cho trên 4.500 lao động, với mức lương bình quân đạt trên dưới 7 triệu đồng/lao động/tháng. Bài viết phân tích tài chính của TISCO trong 3 năm gần đây, từ đó đề xuất giải pháp cải thiện tình hình của công ty trong thời gian tới.

600 Công nghệ và năng suất lao động của doanh nghiệp ngành chế biến chế tạo Việt Nam / Trần Ngô Thị Minh Tâm // Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương .- 2019 .- Số 541 .- Tr. 7-9 .- 658

Theo báo cáo về năng suất lao động Việt Nam của Tổng Cục thống kê năm 2016, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo của Việt Nam hoạt động chủ yếu ở dạng sơ chế, gia công, tạo giá trị gia tăng cho sản phẩm rất thấp. Doanh nghiệp sản xuất công nghiệp Việt Nam có công nghệ sản xuất thấp và trung bình chiếm đa số (88% trong toàn ngành chế biến, chế tạo năm 2012. Giá trị tăng thêm các doanh nghiệp công nghệ cao là 26.5%). Các tỉ lệ này thậm chí còn thấp hơn so với năm 2010 (87% và 29% tương ứng). Năng suất lao động ngành công nghiệp chế biến của Việt Nam xếp thứ 97 sau các nước trong khu vực. Vì vậy, thúc đẩy cải tiến nâng cao công nghệ là nội dung quan trọng trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng của Việt Nam.