CSDL Bài trích Báo - Tạp chí
Khoa Khoa học Xã Hội & Nhân Văn
721 Khảo sát các cách thức tìm kiếm và phân tích ngữ liệu song ngữ trong quá trình học học phần ngôn ngữ học đối chiếu của sinh viên năm 3 khoa ngôn ngữ và văn hóa nhật bản, Trường Đại Học Ngoại Ngữ, Đại Học Huế / Nguyễn Thị Hồng Hoa // .- 2022 .- Tập 6, số 2 .- Tr. 193-208 .- 401
Khi bắt đầu tiếp cận một bài tập lớn hay một đề tài nghiên cứu ngôn ngữ đối chiếu thì bước đầu tiên sinh viên cần làm đó là tìm kiếm, tập hợp và xử lý ngữ liệu song ngữ. Nghiên cứu đưa ra kết quả khảo sát việc tìm kiếm và xử lý ngữ liệu song ngữ khi học học phần Ngôn ngữ học đối chiếu Nhật-Việt của sinh năm 3 Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Nhật Bản, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế. Từ đó, bài nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm giúp sinh viên tìm kiếm và phân tích ngữ liệu ứng với từng tiêu chí và từng cấp độ ngôn ngữ hiệu quả hơn.
722 Ẩn dụ ngữ pháp trong thi ca / Giã Thị Tuyết Nhung, Phan Văn Hòa // .- 2022 .- Tập 6, số 2 .- Tr. 233-250 .- 401.43
Halliday và Martin (1985, 1992) nhìn nhận ẩn dụ ngữ pháp như là nguồn lực phong phú để diễn đạt nghĩa, có chức năng nén thông tin, tạo tính liên nhân trong giao tiếp và tính mạch lạc trong cấu tạo văn bản. Với đặc trưng và chức năng như vậy, ẩn dụ ngữ pháp xuất hiện trong nhiều thể loại văn bản khác nhau kể cả trong thi ca. Thi ca là một thể loại văn học được trình bày bằng hình thức ngắn gọn và súc tích nhất về mặt tổ chức ngôn ngữ trong đó có vần điệu và các quy luật phối âm riêng dưới dạng nghệ thuật cao. Để tìm hiểu đặc trưng và các chức năng của ẩn dụ ngữ pháp trong thi ca, bài nghiên cứu nhận diện và phân tích các yếu tố cấu thành ẩn dụ ngữ pháp kinh nghiệm, ẩn dụ ngữ pháp liên nhân và ẩn dụ ngữ pháp văn bản bằng cách lấy mô hình các loại ẩn dụ ngữ pháp xuất hiện trong các bài thơ “Đôi mắt sáng nhìn lên” (Hoài Hương, 1966), “Quê hương” (Giang Nam, 1960) và “Núi Đôi” (Vũ Cao, 1956). Bài báo này là một sự vận dụng lý thuyết ngôn ngữ học chức năng hệ thống vào nghiên cứu ẩn dụ ngữ pháp trong một số bài thơ tiếng Việt với hy vọng góp một phần nào đó về mặt lý thuyết và thực hành. Kết quả của nghiên cứu cho thấy ẩn dụ ngữ pháp liên nhân xuất hiện nhiều nhất -17 lần chiếm 36%, ẩn dụ ngữ pháp kinh nghiệm và ẩn dụ ngữ pháp văn bản có tần số xuất hiện như nhau -15 lần, chiếm 32% mỗi loại.
723 Từ “Dụ Cần Vương” (1885) đến “Chiếu Cần Vương” (1889) : tư liệu và bình luận / Trần Đức Anh Sơn // .- 2022 .- Số 4 .- Tr. 88-118 .- 800
Sau khi quân đội triều Nguyễn mở cuộc tấn công vào Tòa Khâm sứ Trung Kỳ và doanh trại lính Pháp ở đồn Mang Cá bên trong Kinh Thành Huế vào rạng sáng ngày 05.7.1885, quân đội Pháp ở Huế đã nhanh chóng đẩy lùi cuộc tấn công này, dẫn đến sự kiện “Kinh đô thất thủ”, khiến vua Hàm Nghi (trị vì: 1884 - 1885), hoàng gia triều Nguyễn và những người đứng đầu “phái chủ chiến” trong triều đình phải rời bỏ kinh đô Huế, đi lên căn cứ Tân Sở ở Quảng Trị trú thân, tìm cách tập hợp lực lượng để tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp. Tại Tân Sở, vua Hàm Nghi ban bố “Dụ Cần Vương” kêu gọi toàn dân đứng lên đánh Pháp. Tuy nhiên, ngoài “Dụ Cần Vương” này, còn hai văn bản khác, được gọi là “Chiếu Cần Vương”, xuất hiện muộn hơn và gây nhiều tranh cãi trong giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam ở trong và ngoài nước. Bài viết này dựa vào những khảo cứu và bình luận về ba bức “Chiếu Cần Vương” nói trên, đã được các nhà nghiên cứu ở trong và ngoài nước đăng tải trên các tạp chí và diễn đàn học thuật từ năm 1996 đến nay. Từ đó, đưa ra những nhận định về tính thật / giả của các văn bản này và làm sáng tỏ một số vấn đề lịch sử xung quanh các văn bản này.
724 Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định tiếp tục học trực tuyến của sinh viên các Trường Đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh / Nguyễn Ngọc Hiền, Nguyễn Thị Hạnh Uyên // .- 2023 .- Số 58 .- Tr. 54-67 .- 378
Nghiên cứu này sử dụng kết hợp lý thuyết chấp nhận và sử dụng công nghệ (UTAUT), lý thuyết phù hợp nhiệm vụ với công nghệ (TTF) và sự hài lòng của sinh viên để điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến ý định tiếp tục học trực tuyến của sinh viên sau khi đại dịch covid-19 được kiểm soát. Dựa trên dữ liệu thu thập được từ 752 sinh viên đang học đại học tại thành phố Hồ Chí Minh.Mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) được sử dựng để đánh giá và kiểm định mô hình. Kết quả cho thấy rằng, kỳ vọng hiệu quả, kỳ vọng nỗ lực, ảnh hưởng xã hội, và sự hài lòng là những yếu tố dự đoán quan trọng đến ý định tiếp tục học trực tuyến của sinh viên đại học. Điều kiện thuận lợi và sự phù hợp nhiệm vụ với công nghệ có ảnh hưởng gián tiếp đến ý định tiếp tục thông qua sự hài lòng.Các phát hiện giúp các nhà nghiên cứu và các nhà thực hành hiểu rõ hơn về ý định tiếp tục học trực tuyến của sinh viên đại học.
725 Đánh giá, đo lường và thu thập minh chứng về vấn đề học tập suốt đời để đáp ứng tiêu chuẩn bảo đảm chất lượng cấp chương trình đào tạo / Đỗ Khoa Thúy Kha // .- 2023 .- Số 58 .- Tr. 103-115 .- 371.1
Trong thời đại của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, khi mọi thứ đều kết nối với nhau và những thay đổi diễn ra ngày càng nhanh chóng, người học phải học cách học, học cách thích ứng với sự thay đổi, sự không chắc chắn và phải trang bị cho mình những năng lực cần thiết để có thể học tập suốt đời (HTSĐ). Các chương trình giáo dục đại học cũng đã có nhiều hoạt động nhằm phát triển khả năng HTSĐ của SV nhằm đáp ứng yêu cầu của các bên liên quan và đạt sự công nhận từ các tổ chức kiểm định giáo dục. Bài viết này hệ thống hóa các yếu tố liên quan đếnHTSĐ, phân tích năng lực chính để HTSĐ, từ đó đề xuất cách thức triển khai đánh giá, đo lường khả năng học tập suốt đời của sinh viên(SV) và thu thập minh chứng để đáp ứng tiêu chí về học tập suốt đời trong các khung bảo đảm chất lượng cấp chương trình đào tạo (CTĐT).
726 Vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy các môn lý luận chính trị tại trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay / Nguyễn Thị Thúy Cường // .- 2022 .- Số 58 .- Tr. 116-124 .- 378
Trong bài viết này, tác giả đã làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về phương pháp dạy học tích cực. Phân tích thực trạng vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy các môn Lý luận Chính trịtại Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy các môn Lý luận Chính trị tại Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
727 Biện pháp nâng cao văn hóa ứng xử cho sinh viên trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh / Bùi Thị Hảo // .- 2022 .- Số 58 .- Tr. 125-133 .- 306
Văn hóa ứng xử có vai trò truyền tải giá trịnhân văn, rèn luyện nhân cách, giáo dục thế hệ trẻ. Tại Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, trong khi phần lớn sinh viên có lối sống trong sáng, cư xử văn minh thì vẫn còn một bộ phận không nhỏ sinh viên có hành vi,thái độ ứng xử chưa chuẩn mực, ảnh hưởng tới hình ảnh cá nhân và uy tín nhà trường. Để nâng cao chất lượng, thương hiệu nhà trường đối với xã hội, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố HồChí Minh chú trọng cung cấp kiến thức và xây dựng văn hóa ứng xử học đường. Bài báo khái quát lý luận về văn hóa ứng xử học đường, khảo sát 674 sinh viên đang học tập tại trường để lấy số liệu phân tích thực trạng ứng xử của sinh viên, tìm ra nguyên nhân dẫn đến những hành vi, thái độ ứng xử thiếu văn hóa, từ đó, đề xuất ba nhóm biện pháp nâng cao văn hóa ứng xử học đường cho sinh viên tại Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
728 Vai trò của giáo dục đại học trong việc thúc đẩy và định hướng phát triển bền vững / Nhan Cẩm Trí, Phạm Thị Trang // Phát triển & Hội nhập .- 2022 .- Số 67(77) .- Tr. 23-27 .- 378
Bài báo cáo này nhằm đánh giá nhận thức, thái độ và hành động của các cơ sở giáo dục Đại học liên quan đến phát triển bền vững đặc biệt là Trường Đại học Kinh tế Tài chính TP.HCM (UEF) . Để từ đó có những hỗ trợ cần thiết cho sự phát triển của giáo dục bền vững. Các trường đại học không những cần đưa giáo dục bền vững vào chương trình đào tạo mà cần nên lồng ghép các khía cạnh bền vững vào sứ mệnh, tầm nhìn, mục tiêu và triết lý trong cơ cấu quản lý của họ.
729 Từ một văn bản trong Dung Nhàn trai bút ký nhìn lại một vài chi tiết trong chuyến đi sang Bắc Kinh của phái đoàn Tây Sơn / Nguyễn Duy Chính // Khoa học Đại học Đông Á .- 2023 .- Số 1 (05) .- Tr. 62 - 89 .- 895
Chuyến đi Bắc Kinh của vua Quang Trung dự tiệc mừng sinh nhật hoàng đế Càn Long là một dấu mốc quan trọng trong quan hệ ngoại giao Trung Quốc và An Nam (Việt Nam). Do hiểu nhầm từ một bản tấu của đại thần nhà Thanh là Phúc Khang An, hoàng đế Càn Long cho rằng vua Quang Trung quan tâm đến long bào rất được quý trọng của triều đình nhà Thanh. Sự hiểu nhầm này đã dẫn đến một hành động vô tiền khoáng hậu là Càn Long đã ban triều phục và các phụ kiện cho vua Quang Trung, ban cho ông mọi tước vị của một hoàng thân. Thông qua đối chiếu một văn bản thư tịch ngoại giao của các văn thần Tây Sơn soạn thảo trích trong Bang giao hảo thoại và văn bản đã được biên tập của một đại thần nhà Thanh (do Trần Kỳ Nguyên sưu tầm trong Dung Nhàn trai bút ký) đã tiết lộ những câu chuyện thú vị từ hậu trường quan hệ ngoại giao giữa triều đình An Nam và Trung Hoa vào cuối thế kỷ XVIII.
730 Truyện ngắn Người cóc của Nguyễn Thị Diệp Mai từ góc nhìn hậu hiện đại / Bùi Ngọc Luyến // Khoa học Đại học Đồng Tháp .- 2023 .- Số 1 .- Tr. 56 - 64 .- 895
Chủ nghĩa hậu hiện đại là một hiện tượng văn hóa tinh thần khởi nguồn ở phương Tây từ nửa sau thế kỉ XX. Tuy xuất hiện khá lâu ở phương Tây nhưng tại Việt Nam nó chỉ mới được quan tâm tìm hiểu khoảng hơn chục năm trở lại đây. Trong văn học, chủ nghĩa hậu hiện đại gắn với sự khủng hoảng đức tin, sự thất vọng về thực tại và con người tha hóa, cùng sự “giải ảo tưởng”, “phản huyễn tưởng” và tính đa nguyên văn hóa; nó vừa phủ nhận, vừa tiếp nhận và biến đổi những nguyên tắc của chủ nghĩa hiện đại, đồng thời kết hợp được tính bình dân, dân chủ với tính tinh tuyển, “bác học” của văn chương. Việc vận dụng lý thuyết văn học hậu hiện đại vào trong sáng tác của các nhà văn Việt Nam ngày càng diễn ra sôi nổi. Tinh thần hậu hiện đại đã soi chiếu vào tư duy của nhiều nhà văn trong đó có Nguyễn Thị Diệp Mai. Truyện ngắn “Người cóc” của nhà văn Nguyễn Thị Diệp Mai là một trong những tác phẩm mang đậm dấu ấn hậu hiện đại, nó được thể hiện qua các phương diện như phi đại tự sự, liên văn bản, kết cấu lắp ghép, phân mảnh.