CSDL Bài trích Báo - Tạp chí
Khoa Kinh tế - Tài chính
861 Ứng dụng F-score để dự báo khả năng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam / Phạm Quốc Việt, Huỳnh Phước Thiện // .- 2023 .- Số 815 - Tháng 12 .- Tr. 65-67 .- 332
Bài viết thử nghiệm chỉ số F-score (là một thước đo tổng hợp về tình hình tài chính của doanh nghiệp) để dự báo khả năng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời so sánh với chỉ số Z-score, là công cụ dự báo phổ biến trên thị trường. Mẫu dữ liệu cân bằng từ 660 công ty phi tài chính niêm yết trong giai đoạn 2012-2022 được sử dụng để kiểm tra các giả thuyết nghiên cứu. Kết quả cho thấy, F-score và Z-score đều có quan hệ nghịch biến với xác suất kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp, đồng thời khả năng dự báo đúng của hai chỉ số trên là tương đương nhau (84,2% so với 84,44%). Kết quả này làm cơ sở cho đề xuất sử dụng F-score trong dự báo kiệt quệ tài chính cho các công ty phi đại chúng ở Việt Nam.
862 Nguyên lý xây dựng hệ thống đo lường phát triển kinh tế tuần hoàn cho Việt Nam / Bùi Nhật Huy // .- 2023 .- Số 11 (546) - Tháng 11 .- Tr. 38-50 .- 330
Bài viết này đề xuất các nguyên lý xây dựng hệ thống đo lường phát triển kinh tế triển kinh tế tuần hoàn xuất phát từ các quốc gia và khu vực trên thế giới. Trong đó, hầu hết các hệ thống đo lường của các quốc gia được xây dựng dựa trên các mục tiêu quốc gia và hiệu quả sử dụng của dòng vật liệu trong nền kinh tế. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, để xây dựng được các hệ thống đo lường kinh tế tuần hoàn cần phải xác định rõ mục tiêu, quy mô đo lường (vi mô, trung gian, vĩ mô) phù hợp. Các tiêu chí đánh giá cần được xây dựng một cách đặc trưng, cụ thể theo từng mục tiêu, giai đoạn, lộ trình phát triển và thỏa mãn các nguyên tắc cơ bản của phát triển kinh tế.
863 Tăng cường huy động vốn xã hội cho phát triển kinh tế: nghiên cứu trường hợp ở miền tây tỉnh Nghệ An / Nguyễn Thị Hoài Lê // .- 2023 .- Số 11 (546) - Tháng 11 .- Tr. 38-50 .- 330
Bài viết dựa trên kết quả 452 mẫu khảo sát để làm rõ vai trò của vốn xã hội đối với mạng lưới kết nối và niềm tin có tác động tích cực tới phát triển kinh tế, nhưng chính người dân đang có xu hướng tự làm suy giảm cơ hội tiếp cận các nguồn lực của mình do họ khi đã tham gia hội/nhóm này rồi lại chưa coi trọng việc tìm cơ hội để mở rộng mạng lưới khác. Từ đó cho thấy, không chỉ cần gia tăng vốn xã hội ở cấp độ cá nhân mà còn đặt ra vấn đề chính quyền địa phương cần quan tâm đến phát huy vốn xã hội ở cấp độ cộng đồng để phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế.
864 Hoàn thiện hệ thống thông tin kế toán quản trị trong các doanh nghiệp sản xuất / Nguyễn Thị Hồng Sương // .- 2023 .- Số 815 - Tháng 12 .- Tr. 68-70 .- 332
Hệ thống thông tin kế toán quản trị là một bộ phận trong tổng thể doanh nghiệp, cung cấp thông tin cho nhà quản lý để hoạch định, kiểm soát các hoạt động và ra quyết định quản lý. Đây là công cụ hữu hiệu của quản trị doanh nghiệp. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế quốc tế, cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ và thông tin, đòi hỏi việc cung cấp thông tin phải được kịp thời, chính xác, đáng tin cậy, để phục vụ cho việc quản lý và ra quyết định. Bài viết phân tích một số vấn đề thực tiễn triển khai hệ thống thông tin trong các doanh nghiệp, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện hệ thống thông tin kế toán quản trị phù hợp với thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất hiện nay.
865 Các yếu tố tài chính tác động đến lợi nhuận công ty nông nghiệp niêm yết tại Việt Nam / Lê Xuân Thái, Trần Trung Chuyển // .- 2023 .- Số 11 (546) - Tháng 11 .- Tr. 64-75 .- 332
Mục tiêu chính của nghiên cứu này là đo lường ảnh hưởng của một số yếu tố tài chính đến lợi nhuận của các công là đồng nghiệp niêm về trên thị trường khoán Việt Nam (VNX). Số liệu sử dụng trong nghiên cứu được thu thập từ báo cáo tài chính của 70 công ty nông nghiệp niêm yết trong giai đoạn 2017 - 2021. Kết quả ước lượng bằng mô hình hồi quy FGLS cho thấy, đòn bẩy tài chính, tỷ lệ tài sản cố định có mối tương quan nghịch với lợi nhuận công ty và quy mổ công ty cổ mối tương quan thuận với lợi nhuận công ty đo bằng tỷ số ROA và ROE. Rủi ro do dịch COVID-19 có ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận công ty.
866 Ảnh hưởng của các yếu tố bên trong và bên ngoài tới năng lực cạnh tranh dịch vụ ngân hàng bán lẻ: trường hợp tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam / Hoàng Ngọc Phương // .- 2023 .- Số 11 (546) - Tháng 11 .- Tr. 86-101 .- 332.12
Các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng, năng lực cạnh tranh của dịch vụ ngân hàng xúc tiến, uy tín thương hiệu, năng lực tài chính, công nghệ và văn hóa doanh nghiệp. Nghiên cứu này sử dụng mô hình phương trình cấu trúc (SEM) và bộ dữ liệu khảo sát tại VietinBank cho thấy, sáu yếu tố bên trong ảnh hưởng tích cực đến khả năng cạnh tranh dịch vụ ngân hàng bán lẻ của VietinBank theo thứ tự ảnh hưởng giảm dần là: uy tín thương hiệu; năng lực tài chính; chất lượng dịch vụ, sản phẩm; công nghệ và xúc tiến.
867 Tiêu dùng năng lượng, thương mại và ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế / Phan Thị Thu Giang // .- 2023 .- Số 11 (546) - Tháng 11 .- Tr. 112-120 .- 330
Tăng trưởng kinh tế cao là mục tiêu quan trọng trong các chương trình nghị sự tại các quốc gia trong đó có Việt Nam, nhằm thực hiện mục tiêu đưa quốc gia vươn tới con đường thịnh vượng. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá tác động của tiêu dùng năng ượng và thương mại quốc tế đến tăng trưởng kinh tế. Qua phân tích định lượng, kết quả nghiên cứu cho thấy, tiêu dùng năng lượng có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, qua đó phản ánh vai trò rất quan trọng của an ninh năng lượng đối với tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu cũng khẳng định thương mại quốc tế có tác động tích cực đến tăng trưởng, đặc biệt là tại các phân vị thấp. Tuy vậy, chưa có bằng chứng rõ ràng của tác động FDI đến tăng trưởng.
868 Công bố thông tin ngân hàng xanh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam / Trần Nguyên Sa, Hạ Thị Thiều Dao // .- 2023 .- Số 318 - Tháng 12 .- Tr. 2-11 .- 332.12
Bài viết này nghiên cứu thực trạng công bố thông tin về hoạt động ngân hàng xanh của các ngân hàng thương mại niêm yết ở Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích chỉ số công bố thông tin đối với Báo cáo thường niên của các ngân hàng để tiến hành đánh giá thực trạng công bố hoạt động ngân hàng xanh của 20 ngân hàng thương mại niêm yết ở Việt Nam theo hướng dẫn của Bộ Tài chính tại Thông tư số 155/2015/TT-BTC và 96/2020/TT-BTC trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2022. Kết quả nghiên cứu nhận thấy, chỉ có 17/20 ngân hàng thương mại công bố thông tin ngân hàng xanh vào năm 2022, các tiêu chí công bố thông tin vẫn chưa được báo cáo đầy đủ, từ đó, nghiên cứu đưa ra những khuyến nghị khả thi cho sự phát triển việc công bố thông tin ngân hàng xanh tại Việt Nam.
869 Đầu tư xanh, phát triển tài chính, tăng trưởng kinh tế và khí thải CO2: Nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam / Ngô Thái Hưng, Nguyễn Yến Nhi, Phạm Thị Kim Xuyến, Võ Văn Thẩm // .- 2023 .- Số 318 - Tháng 12 .- Tr. 12-22 .- 332.1
Kết quả cho thấy GRE, FIN và GDP đều có ảnh hưởng mạnh mẽ đến lượng khí thải CO2; tuy nhiên mối quan hệ này thay đổi theo các phân vị khác nhau của từng cặp biến. Sự thay đổi này có thể là do điều kiện thị trường tài chính xanh, hay tốc độ tăng trưởng kinh tế mà nó có ảnh hưởng tiêu cực hay tích cực đến lượng khí thải CO2. Những phát hiện trong nghiên cứu khẳng định rằng đầu tư xanh là chiến lược tốt nhất để có thể giảm lượng khí thải CO2, và đưa ra các chính sách hàm ý ngày càng nâng cao hơn nữa vai trò của đầu tư xanh hướng đến phát triển bền vững.
870 Liệu chính sách có ảnh hưởng đến quyết định cấp tín dụng cho các dự án xanh? – Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam / Lê Đức Lữ, Khúc Thế Anh, Bùi Kiên Trung // .- 2023 .- Số 318 - Tháng 12 .- Tr. 23-33 .- 332.1
Bài viết này tập trung trả lời câu hỏi: chính sách có ảnh hưởng đến việc lập kế hoạch và tài trợ cho các dự án xanh của các tổ chức tài chính không phải ngân hàng hay không? Nghiên cứu định tính được sử dụng để phỏng vấn các chuyên gia lý thuyết và thực tiễn nhằm hiệu chỉnh bảng hỏi, thang đo và thảo luận một số chính sách. Chúng tôi sử dụng SPSS26 và AMOS24 để xử lý 1.383 bảng hỏi thu thập từ khảo sát. Kết quả cho thấy chính sách của các cơ quan quản lý nhà nước và của chính các tổ chức có ảnh hưởng tích cực đến ý định và quyết định cấp tín dụng xanh. Dựa trên kết quả nghiên cứu, chúng tôi đưa ra một số hàm ý chính sách đến Chính phủ, ngân hàng nhà nước, các Bộ có liên quan (như Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Tài chính) và chính các tổ chức tài chính.