CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

Khoa Kinh tế - Tài chính

  • Duyệt theo:
171 Quản lí tiền mã hóa ở một số quốc gia kinh nghiệm và một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam / Lê Thị Kim Nhung, Nguyễn Lê Đức // .- 2024 .- Số 09 - Tháng 5 .- Tr. 42 – 47 .- 332

Trong kỉ nguyên của nền công nghiệp 4.0, tiền mã hóa là một ứng dụng tiêu biểu của công nghệ số Blockchain. Các loại tiền mã hóa xuất hiện là tất yếu trong quá trình phát triển của các hình thái tiền tệ, đem đến sự phát triển vượt bậc về thương mại điện tử và mở ra cho thị trường tài chính một trang mới. Trong thời gian qua, tiền mã hóa đã và đang chứng minh những ưu, nhược điểm của mình trong nền tài chính hiện đại, nó đem đến cỡ hội nhưng đồng thời cũng tạo ra những thách thức đối với nền kinh tế kĩ thuật số. Chính vì vậy, tiền mã hóa là vấn đề được quan tâm của rất nhiều nhà quản lí, giám sát tài chính toàn cầu. Làm cách nào để quản lí hiệu quả tiền mã hóa, biến chúng thành công cụ an toàn trên hị trường tài chính nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung? Đây là vấn đề quan trọng đối ới các quốc gia trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Bài viết phân tích các khía cạnh quản lí, ám sát tiền mã hóa của một số quốc gia trên thế giới, trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến ghị chính sách đối với Việt Nam.

172 Quốc tế hóa nhân dân tệ và hợp tác tiền tệ giữa Trung Quốc với các nước ASEAN / Khương Thanh Hà // .- 2024 .- Số 09 - Tháng 5 .- Tr. 48 – 56 .- 332

Nghiên cứu này phân tích tình hình và kết quả triển khai chiến lược quốc tế hóa Nhân dân tệ (CNY) của Trung Quốc từ năm 2009 đến nay, trong đó tập trung vào các nội dung hợp tác tiền tệ giữa Trung Quốc và các nước ASEAN, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc triển khai các sáng kiến hợp tác tiền tệ với Trung Quốc. Kết quả rà soát cho thấy xu hướng phát triển chung các nước ASEAN đều thúc đẩy hợp tác tiền tệ với Trung Quốc, tuy nhiên, mức độ hợp tác tiền tệ của các quốc gia ASEAN với Trung Quốc khác nhau, phụ thuộc vào quy mô hợp tác và kết nối kinh tế và cân bằng chi phí - lợi ích của mỗi nước. Kinh nghiệm của các nước có những giá trị tham khảo nhất định cho Việt Nam trong việc xác định định hướng, cách thức và mức độ triển khai hợp tác tiền tệ với Trung Quốc.

173 Khả năng phục hồi tài chính đối với cú sốc và thảm họa khí hậu / Nguyễn Minh Sáng // .- 2024 .- Sô 05 (632) .- Tr. 43 – 47 .- 332

Biến đổi khí hậu đang làm gia tăng cường độ và tần suất của các hiện tượng thời tiết cực đoan, dẫn đến thiệt hại kinh tế ngày càng tăng. Bài viết phân tích các chiến lược then chốt để xây dựng khả năng phục hồi tài chính ở cấp độ cá nhân, cộng đồng và toàn cầu. Ở cấp độ cá nhân và hộ gia đình, các khuyến nghị bao gồm thiết lập quỹ dự phòng, mua bảo hiểm đầy đủ và đầu tư vào tài sản chịu ảnh hưởng bởi thời tiết. Các chính quyền địa phương nên đa dạng hóa nền kinh tế, nâng cấp cơ sở hạ tầng và khuyến khích doanh nghiệp áp dụng thực hành thông minh với khí hậu. Ở cấp độ quốc gia và quốc tế, các quỹ cứu trợ, chương trình bảo hiểm và cơ chế tín dụng điều kiện là rất cần thiết để hỗ trợ các cộng đồng bị ảnh hưởng. Xây dựng khả năng phục hồi tài chính có thể giúp giảm thiểu thiệt hại kinh tế do biến đổi khí hậu.

174 Một số vấn đề về cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự / Nguyễn Hồ Phương Thảo // .- 2024 .- Sô 05 (632) .- Tr. 54 – 62 .- 332

Cho vay lãi nặng là một loại tội phạm gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế. Việc cho vay lãi nặng có thể dẫn đến phá sản, tịch thu tài sản và thậm chí là bạo lực đối với người vay tiền. Các hoạt động cho vay nặng lãi vẫn len lỏi vào nền kinh tế bằng nhiều thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn. Bài viết khái quát một số vấn đề về cho vay, nguyên nhân, phân tích những khó khăn trong việc xử lý, đồng thời đưa ra những khuyến nghị nhằm ngăn ngừa, hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi.

175 Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác phòng chống tội phạm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng / Nguyễn Tấn Khoa // .- 2024 .- Sô 05 (632) .- Tr. 63 – 69 .- 332

Phòng chống tội phạm trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng (TCNH) là một mục tiêu quan trọng của chính phủ và các cơ quan chức năng các quốc gia. Từ khi Việt Nam mở cửa áp dụng kinh tế thị trường định hưởng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, ngành TCNH đã phát triển mạnh mẽ và trở thành một hạt nhân quan trọng của nền kinh tế. Tuy nhiên, điều này đồng nghĩa với việc nguy cơ tội phạm trong lĩnh vực này gia tăng. Bài viết tập trung vào việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực trạng phòng chống tội phạm TCNH tại Việt Nam trong thời gian vừa qua. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tội phạm TCNH tại Việt Nam trong thời gian tới.

176 Khẩu vị rủi ro của các ngân hàng Thương mại Việt Nam / Lê Hà Diễm Chi // .- 2024 .- Sô 05 (632) .- Tr. 70 – 74 .- 332

Bài viết tổng quan các lập luận về khẩu vị rủi ro (KVRR) và nhấn mạnh KVRR của các ngăn hàng thương mại (NHTM) Việt Nam. Dựa trên các lý luận khoa học đó, bài viết tìm hiểu cách lượng hóa KVRR trong nghiên cứu thực nghiệm. Sử dụng dữ liệu 26 NHTM Việt Nam từ năm 2012-2022, kết quả tính toán tỷ lệ KVRR cho thấy KVRR của các NHTM Việt Nam ở mức thấp, nhỏ hơn 1 trong giai đoạn 2012-2017 và đã cải thiện cao hơn 1 ở giai đoạn 2018-2020. Kết quả này hàm ý rằng các ngân hàng Việt Nam ngày càng cẩn trọng hơn trong hoạt động kinh doanh, chú tâm đến công tác quản trị rủi ro, nhằm hưởng đến sự ổn định, sự phát triển bền vững hơn là tập trung cho mục tiêu lợi nhuận.

177 Tác động của Deepfake đối với an ninh ngân hàng và tổ chức tài chính / Nguyễn Thanh Nga // .- 2024 .- Sô 05 (632) .- Tr. 75 – 78 .- 332

Trong báo cáo mới về quản lý rủi ro của trí tuệ nhận tạo (AI) trong lĩnh vực tài chính, Bộ Tài chính Mỹ đã đưa ra cảnh báo nghiêm trọng về an ninh mạng trong hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính khi họ phải đối mặt với với các thách thức mới liên quan đến các gian lận Deepfake. Trong khuôn khổ của bài viết, tác giả đưa ra những góc nhìn mới nhất về ảnh hưởng của công nghệ này đối với lĩnh vực tài chính và ngân hàng, bao gồm các hình thức tấn công/gian lận khác nhau, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế những rủi ro đến từ Deepfake.

178 Tác động của văn hóa tới tài chính / Trương Hoàng Diệp Hương // .- 2024 .- Sô 05 (632) .- Tr. 79 – 83 .- 332

Sự phát triển của thị trường tài chính đóng một vai trò to lớn trong phát triển kinh tế. Sự phát triển tài chính đòi hỏi phải có các chính sách mạnh mẽ để quản lý và giám sát tất cả các tổ chức quan trọng trên thị trường, đồng thời thúc đẩy người dân và doanh nghiệp tham gia thị trường. Nghiên cứu này cho thấy, yếu tố văn hóa quốc gia có ảnh hưởng đến sự phát triển và cấu trúc của thị trường. Theo đó, nắm được tác động của các yếu tố văn hóa, chính phủ các quốc gia cần xây dựng các chính sách đặc trưng theo từng quốc gia nhằm đưa ra các định hướng đúng và phù hợp hơn.

179 “Chặng cuối” của lạm phát toàn cầu : 7 rủi ro và 3 hàm ý chính sách / Nguyễn Hồng Nga // .- 2024 .- Sô 05 (632) .- Tr. 84 – 87 .- 332

Lạm phát toàn cầu đang chậm lại và các ngân hàng trung ương (NHTW) cũng đang chuẩn bị nới lỏng chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, vẫn còn “chặng cuối cùng”, có thể là khó khăn nhất; trong kịch bản lạm phát quay trở lại mức mục tiêu và nền kinh tế quay trở lại tiềm năng tăng trưởng, rủi ro vẫn khó tránh khỏi. Bài viết đề cập 4 chỉ báo của một kịch bản “hạ cánh mềm” của nền kinh tế toàn cầu, 7 rủi ro lạm phát có thể phát sinh trong kịch bản “hạ cánh mềm” và 3 hàm ý chính sách.

180 Xây dựng mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ lệ sở hữu của khối ngoại tại các doanh nghiệp tài chính niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam / Nguyễn Thị Thu Liên, Trần Thị Phương Anh, Trần An Khánh, Vũ Hoàng Minh, Trần Hà My // .- 2024 .- Tập 66 - Số 4 - Tháng 4 .- Tr. 01-09 .- 332.024

Kế thừa các kết quả nghiên cứu trước đó, vận dụng phương pháp nghiên cứu định tính, nghiên cứu này đã tổng quan cả cơ sở lý thuyết và thực tiễn nhằm đề xuất một mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ lệ sở hữu của khối ngoại tại các doanh nghiệp tài chính niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam. Điểm mới của nghiên cứu này là đặt trong phạm vi các doanh nghiệp tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam và trong bối cảnh TTCK có những biến động mạnh, do tác động của đại dịch COVID-19.