CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

Khoa Luật

  • Duyệt theo:
501 Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do trí tuệ nhân tạo gây ra – kinh nghiệm của liên minh Châu Âu cho Việt Nam / Nguyễn Thị Hoa // Khoa học pháp lý .- 2023 .- Số 08(168) - Tháng 08 .- Tr. 1- 11 .- 340

Trong kỷ nguyên về công nghệ 4.0, trí tuệ nhân tạo (artificial intelligence - AI) là chủ đề đang được chú ý thảo luận. AI đang hứa hẹn mang đến cho con người nhiều lợi ích khác nhau trong sinh hoạt và công việc. Nhận thức được tầm quan trọng đó, ngày 26/01/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 127/QĐ-TTg ban hành Chiến lược quốc gia về Nghiên cứu, phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo đến năm 2030, nhấn mạnh nhiệm vụ“xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật tạo hành lang pháp lý thống thoảng đáp ứng yêu cầu thúc đẩy nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI vào cuộc sống”. Bài viết này nghiên cứu một số vấn đề pháp lý về bồi thường thiệt hại phát sinh từ việc ứng dụng AI trong trường hợp AI có những thiếu sót như “một con người” và gây thiệt hại. Bài viết này nghiên cứu hệ thống pháp luật của một trong những khu vực kinh tế hàng đầu thế giới là Liên minh châu Âu, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

502 Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do trí tuệ nhân tạo gây ra / Nguyễn Thị Hoa // Khoa học pháp lý .- 2023 .- Số 08(168) - Tháng 08 .- Tr. 12- 26 .- 340

Xã hội ngày càng phát triển, nhiều máy móc, thiết bị kỹ thuật cao, nhiều sản phẩm như robot, thiết bị công nghệ cao đã được chế tạo ra từ trí tuệ nhân tạo (artificial intelligence - AI). AI có thể được tích hợp khả năng xử lý “thông minh”, vận hành chính xác, nhưng cũng không thể tránh khỏi những kiếm khuyết về kỹ thuật - công nghệ, và không thể loại trù được hết nguy cơ gây thiệt hại cho người khác và xã hội vì AI là sản phẩm do con người tạo ra, điều khiển. Vấn đề đặt ra là, khi AI gây thiệt hại, thì ai phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý. Dựa vào lý luận về năng lực chủ thể và trách nhiệm pháp lý, bài viết phân tích những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, có so sánh với pháp luật của châu Âu về xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, từ đó rút ra được những kinh nghiệm hữu ích áp dụng cho Việt Nam về chủ thể bồi thường thiệt hại do AI gây ra.

503 Một số quy định trong Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 và góp ý hoàn thiện Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) / Đỗ Mạnh Phương // Ngân hàng .- 2023 .- Số 18 - Tháng 9 .- Tr. 34-38 .- 340

Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) sau hơn 12 năm thực hiện đã bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã soạn thảo Dự thảo Luật Các TCTD (sửa đổi), dự kiến Chính phủ sẽ trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 6 (tháng 10/2023). Bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá một số quy định của Luật Các TCTD năm 2010 và những nội dung tương ứng trong Dự thảo Luật Các TCTD (sửa đổi), từ đó đưa ra một số góp ý với Dự thảo này.

504 Tính bất khả thi của một số quy định về lao động giúp việc gia đình trong Bộ luật Lao động năm 2019 / Huỳnh Thị Minh Duyên // .- 2023 .- Số 02 (57) - Tháng 4 .- Tr. 146-153 .- 340

Đánh giá tính bất khả thi của một số quy định về lao động giúp việc gia đình trong Bộ luật Lao động sửa đổi, bổ sung năm 2019.

505 Hoàn thiện pháp luật về tổ chức nhân sự trong mô hình chính quyền đô thị ở Thành phố Hồ Chí Minh / Lê Việt Sơn, Trương Thị Minh Thùy // Khoa học pháp lý .- 2023 .- Số 06(166) .- Tr. 83-92 .- 340

Bài viết phân tích quy định của pháp luật về tổ chức nhân sự trong mô hình chính quyền đô thị ở Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, bài viết chỉ ra một số điểm bất cập trong quy định của pháp luật và đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.

506 Kiểm soát của chính phủ đối với chính quyền đô thị tại thành phố Hồ chí minh trong việc thực hiện quyền lực nhà nước / Nguyễn Văn Trí, Phạm Thị Phương Thảo // Khoa học pháp lý .- 2023 .- Số 06(166) .- Tr. 93-102 .- 340

Với các quy chế pháp lý đặc thù do chính quyền trung ương ban hành, tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những thành quả nhất định, phát huy được những tiềm năng của trung tâm lớn hàng đầu cả nước về kinh tế, văn hóa, xã hội. Cùng với việc tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, sự phân cấp, phân quyền thì hoạt động kiểm soát quyền lực của chính quyền trung ương nói chung và sự kiểm soát của Chính phủ nói riêng đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước của chính quyền ở đô thị này là yêu cầu hết sức cần thiết. Bài viết này phân tích hoạt động kiểm soát của Chính phủ đối với chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh trong việc thực hiện quyền lực nhà nước hiện nay và đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này.

507 Mô hình “thị trưởng” trong tổ chức chính quyền đô thị ở các thành phố lớn trên thế giới và một số gợi mở cho Thành phố Hồ Chí Minh / Nguyễn Thanh Quyên, Huỳnh Thị Hồng Nhiên // Khoa học pháp lý .- 2023 .- Số 06(166) - Tháng 6 .- Tr. 103-114 .- 340

Bài viết tập trung phân tích về mô hình “Thị trưởng” trong việc tổ chức chính quyền đô thị ở một số thành phố lớn trên thế giới như Bắc Kinh (Trung Quốc), New York (Hoa Kỳ) và Seoul (Hàn Quốc) ở các phương diện như: tên gọi của mô hình tổ chức chính quyền đô thị; nguồn gốc hình thành; cơ cấu tổ chức; cách thành lập và thẩm quyền. Từ đó, bài viết đưa ra một số nhận xét về mô hình tổ chức chính quyền đô thị từ các thành phố lớn này. Trên cơ sở đó, bài viết cũng đặt ra và giải quyết vấn đề liên quan đến đổi mới tổ chức chính quyền đô thị ở Thành phố Hồ Chí Minh thông qua việc đưa ra một số gợi mở cho việc đổi mới tổ chức chính quyền đô thị ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.

508 Giám sát của hội đồng nhân dân trong cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay – lý luận và thực tiễn / // Khoa học pháp lý .- 2023 .- Số 07(167) - Tháng 07 .- .- 340

Hội đồng nhân dân (HĐND) là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và các cơ quan nhà nước cấp trên. Giám sát của HĐND có vai trò quan trọng trong cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước. Bài viết phân tích hoạt động giám sát của HĐND trong cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện.

509 Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động – Kinh nghiệm của Đan Mạch và Estonia/ / Hoàng Minh Hội // Khoa học pháp lý .- 2023 .- Số 07(167) - Tháng 07 .- Tr. 15-26 .- 340

Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động ảnh hưởng đến sự linh hoạt trong sử dụng lao động và vấn đề đảm bảo công việc cho người lao động. Quy định về lý do đơn phương, thời gian báo trước, mức trợ cấp /bồi thường càng chặt chẽ sẽ làm tăng chi phí chấm dứt hợp đồng lao động đồng thời hạn chế sự tự do của người sử dụng lao động trong việc tăng giảm lao động. Do vậy, việc thiết kế quy định nhằm cân bằng bằng quyền lợi cho người sử dụng lao động và cả người lao động là rất cần thiết. Bài viết này phân tích quy định về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của Đan Mạch và Estonia để lý giải sự khác biệt trong quy định pháp luật của hai quốc gia này nhằm đưa ra những gợi mở cho Việt Nam.

510 Tranh chấp đầu tư quốc tế liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ - một số lưu ý đối với Việt Nam / Nguyễn Thị Anh Thơ, Nguyễn Minh Huyền // Khoa học pháp lý .- 2023 .- Số 07(167) - Tháng 07 .- Tr. 27- 41 .- 340

Hiệp định đầu tư quốc tế (HĐĐTQT) cho phép nhà đầu tư nước ngoài khiếu kiện chính phủ nước tiếp nhận đầu tư ra hội đồng trọng tài quốc tế. Cho đến nay, khá nhiều tranh chấp giữa nhà đầu tư và chính phủ nước tiếp nhận đầu tư đã được khởi xướng, bởi định nghĩa về khoản đầu tư được trải rộng trên nhiều lĩnh vực, và quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) là một trong số đó. Bài viết sẽ phân tích một số vụ tranh chấp đầu tư quốc tế có đối tượng tranh chấp là quyền SHTT, sau đó đánh giá ảnh hưởng của chúng tới sự cân nhắc của các quốc gia trong việc ban hành, áp dụng những chính sách vì mục đích cộng đồng. Đồng thời, bài viết cũng xem xét một số định nghĩa về khoản đầu tư hợp pháp được bảo vệ trong các HĐĐTQT, và so sánh với quy định về đầu tư quốc tế của Việt Nam hiện tại để đánh giá sự phù hợp.