CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

Khoa Luật

  • Duyệt theo:
1331 Tiêu chuẩn bảo hộ sáng chế trong CPTPP, EVFTA và yêu cầu đối với Việt Nam / Phan Quốc Nguyên // Nghiên cứu Lập pháp .- 2022 .- Số 4 (452) .- Tr.25 - 30 .- 346.597048

Việt Nam đã tham gia ký kết Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA). Đây là hai hiệp định tự do thế hệ mới điều chỉnh nhiều vấn đề quan trọng về thương mại, đầu tư, môi trường, tài chính,... và đặc biệt là vấn đề sở hữu trí tuệ. Tiêu chuẩn bảo hộ sáng chế quy định trong hai Hiệp định này khá là cao. Bên cạnh những thuận lợivà cơ hội, những tiêu chuẩn bảo hộ sáng chế quy định trong hai Hiệp định lớn này đặt ra một số yêu cầu đối với Việt Nam.

1332 Các qui định của Luật đất đai năm 2013 về quản lý và sử dụng đất trong khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghệ cao: Thực trạng và kiến nghị / Vũ Quang // Nghiên cứu Lập pháp .- 2022 .- Số 4 (452) .- Tr.25 - 30 .- 346.597 043

Trong tổng thể các vấn đề về xây dựng cơ sở hạ tầng, thu hút đầu tư, vấn đề quản lý và sử dụng đất trong khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghệ cao đã và đang đặt ra hết sức cấp bách do tầm quan trọng của chúng trong phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ cho mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hệ thống chính sách và các quy định pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai trong khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghệ cao đã được xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện khá đầy đủ và hiệu quả. Tuy vậy, trong quá trình phát triển của đất nước, sự thay đổi, phát triển không ngừng của nền kinh tế và của xã hội, các chính sách và các quy định đó bộc lộ nhiều vướng mắc, bất cập, hạn chế khi thực thi trong đời sống thực tiễn. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung phân tích các quy định về quản lý và sử dụng đất trong khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghệ cao, nhận diện những điểm còn hạn chế có thể gây khó khăn cho việc thành lập, hoạt động và phát triển của khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghệ cao; và đưa ra một số ý kiến đóng góp cho việc hoàn thiện Luật Đất đai 2013 trong thời gian tới.

1333 Tác động CPTPP và RCEF đến thương mại Việt Nam - Nhật Bản trong xuất khẩu nông sản / Đỗ Thu Hương // Nghiên cứu Lập pháp .- 2022 .- Số 4 (452) .- Tr.39 - 46 .- 346.066

Năm 2008 và 2009 đánh dấu mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản thông qua Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản 2008 và Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản 2009. Sau một thập kỷ, mối quan hệ này được củng cố thông qua Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) năm 2019 và mới đây nhất là Hiệp định Đối tác toàn diện khu vực (RCEP) năm 2021. CPTPP và RCEP thiết lập mức độ mở cửa thị trường cao hơn hẳn so với các Hiệp định thương mại tự do (FTA) truyền thống. Các FTA đã tạo ra sự thúc đẩy đáng kể đến thương mại giữa hai nước, đặc biệt trong lĩnh vực hàng nông sản; mở ra những cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp sản xuất nông sản của Việt Nam muốn tiếp cận thị trường Nhật Bản.

1334 Quyền được xét xử công bằng của bị cáo tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự ở Việt Nam - Thực trạng và kiến nghị / Võ Quốc Tuấn // .- 2022 .- Số 4 (452) .- Tr.47 - 51 .- 345.5970026

Quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội trong đó có bị cáo là một trong những quyền hiến định. Tuy nhiên, quy định của pháp luật về quyền được xét xử công bằng của bị cáo tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự còn có những bất cập, hạn chế. Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích thực trạng quy định của pháp luật về quyền được xét xử công bằng của bị cáo tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự và đề xuất kiến nghị hoàn thiện.

1335 Lập pháp bảo đảm bình đẳng tại Việt Nam / Lã Khánh Tùng // Nghiên cứu Lập pháp .- 2022 .- Số 5 (453) .- Tr.3 - 10 .- 342.597

Quốc hội có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm bình đẳng, thông qua hoạt động lập pháp, ban hành chính sách và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Tại Việt Nam, hiện tồn tại nhiều hình thức phân biệt đối xử, vi phạm quyền bình đẳng cả dưới dạng thể chế và thực tiễn. Trong khi đó, vẫn chưa có một đạo luật có phạm vi rộng, bao trùm về bình đẳng, chống phân biệt đối xử, và thiếu cơ chế hiệu quả bảo vệ quyền này. Quốc hội cần sớm quan tâm và hành động để khắc phục hai tồn tại này, làm cho quyền bình đẳng được hiện thực hóa đầy đủ hơn.

1336 Công ước về Luật biển năm 1982 và nghề cá ở Đông Nam Á / Nguyễn Hồng Thao // Nghiên cứu Lập pháp .- 2022 .- Số 5 (453) .- Tr.11 - 18 .- 340

Năm 2022, Công ước về Luật biển(UNCLOS) tròn 40 năm tuổi kể từ ngày ký. Bản " Hiến pháp đại dương" này thiết lập một trật tự pháp lý mới tên biển, trong đó có nghề cá. Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam là một trong những khu vực phản ánh rõ những mặt tích cực và hạn chế trong thực hiện quản lý nghề cá mà Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982(UNCLOS) mang lại.

1337 Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật / Vũ Thị Ngọc Dung // Nghiên cứu Lập pháp .- 2022 .- Số 5 (453) .- Tr.19 - 30 .- 342.59706

Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2020 qui định về hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật khá rõ ràng và chặt chẽ. Tuy nhiên, một số qui định đang dần trở nên bất cập như về thời gian có hiệu lực, hiệu lực trở về trước và một số các trường hợp chấm dứt hiệ lực pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật cần được tiếp tục được hoàn thiện.

1338 Sự cần thiết định danh lại chế định Thanh tra nhân dân / Cao Vũ Minh // .- 2022 .- Số 5 (453) .- Tr.31 - 38 .- 340

Luật Thanh tra năm 2010 quy định hai tổ chức thanh tra là Thanh tra nhà nước và Thanh tra nhân dân. Thanh tra nhân dân được thành lập ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, khác với Thanh tra nhà nước, Thanh tra nhân dân không mang tính quyền lực nhà nước. Về tổ chức và hoạt động, Thanh tra nhân dân không nằm trong bộ máy nhà nước và cũng không thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích sự cần thiết phải định danh lại chế định Thanh tra nhân dân trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

1339 Trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường theo luật hình sự Việt Nam / Hà Lệ Thủy, Trần Công Thiết // Nghiên cứu Lập pháp .- 2022 .- Số 5 (453) .- Tr.44 - 49 .- 344.597 046

Các vấn đề môi trường, trong đó có vấn đề xử lý các hành vi gây ô nhiễm môi trường là mối quan tâm rất lớn không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với các quốc gia khác trên thế giới, bao gồm các quốc gia phát triển và quốc gia đang phát triển. Ô nhiễm môi trường đã và đang gây ra những thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng của con người đồng thời gây ảnh hưởng lớn đến nền nền kinh tế của đất nước. Pháp luật hình sự Việt Nam và các nước trên thế giới có những qui định liên quan đến việc xử lý hành vi gây ô nhiễm môi trường pháp nhân, trong đó có trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân phạm tội.

1340 Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân / Bạch Thị Nhã Nam // Nghiên cứu Lập pháp .- 2022 .- Số 5 (453) .- Tr.50 - 57 .- 346

Các qui định pháp luật về dữ liệu cá nhân ở Việt Nam còn nhiều bất cập không thống nhất, thậm chí còn tồn tại nhiều mâu thuẫn. Trên cơ sở tham khảo các qui định của pháp luật Liên minh Châu Âu về bảo vệ dữ liệu cá nhân, Việt nam cần hoàn thiện các qui định về dữ liệu cá nhân trong các văn bản pháp luật, từ đó xây dựng khuôn khổ pháp lý phù hợp để thiết lập quyền và nghĩa vụ của chủ thể dữ liệu cá nhân, quyền và nghĩa vụ của bên xử lý dữ liệu, và các cơ chế đảm bảo thực thi các quyền này.