CSDL Bài trích Báo - Tạp chí
Khoa Y
231 Nghiên cứu đặc điểm của ù tai tiếng cao và yếu tố liên quan / Phạm Anh Dũng, Phạm Thị Bích Đào, Lê Minh Đạt, Bùi Thị Mai, Nguyễn Thị Huyền Trang, Nguyễn Thu Trang, Nguyễn Thị Hà Trang, Vũ Thị Phương Thảo, Nguyễn Thị Hằng, Phạm Hồng Quân, Nguyễn Đình Minh Anh, Trần Văn Tâm // .- 2024 .- Tập 185 - Số 12 - Tháng 12 .- Tr. 354-362 .- 610
Nghiên cứu đánh giá đặc điểm của ù tai tiếng cao và các yếu tố liên quan ở 89 người bệnh biểu hiện ù tai tiếng cao tại Khoa Khám chữa bệnh theo yêu cầu, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ 3/2023 đến tháng 3/2024.
232 Kết quả phẫu thuật cố định cột sống và ghép xương liên thân đốt qua lỗ liên hợp xâm lấn tối thiểu điều trị trượt đốt sống thắt lưng đơn tầng / Nguyễn Vũ, Trần Thị Thuỳ Linh, Vũ Thị Lan Anh, Nguyễn Thị Thu Huyền, Lê Đức Tâm // .- 2024 .- Tập 185 - Số 12 - Tháng 12 .- Tr. 339-346 .- 610
Nghiên cứu chùm ca bệnh trượt đốt sống thắt lưng đơn tầng được phẫu thuật cố định cột sống và ghép xương liên thân đốt qua lỗ liên hợp xâm lấn tối thiểu trong 05 năm (1/2019-12/2023) tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội.
233 Siêu âm tim gắng sức trong đánh giá bệnh nhân hẹp van hai lá khít không tương xứng với triệu chứng lâm sàng: Báo cáo ca lâm sàng / Nguyễn Đỗ Quân, Nguyễn Thị Minh Lý, Hoàng Văn Kỳ // .- 2024 .- Tập 185 - Số 12 - Tháng 12 .- Tr. 371-378 .- 610
Hẹp van hai lá là một trong những bệnh lý van tim phổ biến nhất trên thế giới và tại Việt Nam, đồng thời cũng là nhóm bệnh lý có nhiều sự lựa chọn về điều trị đã được chứng minh giúp cải thiện tiên lượng nhất trong các tổn thương van tim. Thời điểm can thiệp hoặc phẫu thuật đã được nêu rất rõ ràng trong các khuyến cáo của hội Tim mạch Hoa Kỳ cũng như hội Tim mạch châu Âu: khi bệnh nhân có triệu chứng và diện tích lỗ van hẹp nặng. Tuy nhiên, trên lâm sàng có rất nhiều trường hợp có sự bất tương xứng giữa mức độ triệu chứng lâm sàng và diện tích lỗ van, do đó rất cần thiết đánh giá kỹ triệu chứng khó thở trên các bệnh nhân hẹp van hai lá.
234 U máu trong cơ ở trẻ em: Báo cáo ca bệnh hiếm gặp / Nguyễn Thị Dung, Nguyễn Thị Diệu Thuý, Nguyễn Thị Hà, Hoàng Văn Đức, Ngô Thị Huyền Trang, Phạm Văn Dương, Lương Thị Liên, Trần Duy Mạnh, Trần Vân Anh // .- 2024 .- Tập 185 - Số 12 - Tháng 12 .- Tr. 379-385 .- 610
U máu trong cơ (IMH) là khối u máu lành tính được phát hiện trong cơ xương. Đây là một tổn thương hiếm gặp nếu xét đến toàn bộ các loại u máu lành tính. Watson và McCarthy ước tính rằng IMH chỉ chiếm 0,8% trong số tất cả các khối u máu lành tính. Nhiều trong số những tổn thương này được coi là khối u bẩm sinh từ từ gây ra các triệu chứng. Mặc dù bất kỳ cơ nào cũng có thể bị ảnh hưởng, nhưng hầu hết các khối u máu trong cơ đều nằm ở chi dưới, đặc biệt là các cơ đùi và rất hiếm gặp ở chi trên. Đau mạn tính và sờ thấy khối u là những triệu chứng phổ biến nhất. Do các đặc điểm lâm sàng không điển hình của bệnh, nên chẩn đoán chính xác rất khó khăn. Chúng tôi báo cáo một trẻ nữ 16 tháng tuổi có đau và hạn chế vận động khớp háng phải. Chẩn đoán hình ảnh cho thấy hình ảnh tổn thương đặc xương không đều xương cánh chậu bên phải, có mất liên tục vỏ xương, thâm nhiễm vào cấu trúc cơ thắt lưng chậu, cơ mông bé bên phải.
235 Báo cáo ca lâm sàng ít gặp: Giảm áp lực nội sọ do rò dịch não tủy tại cổ cao / Hoàng Tú Minh, Lê Văn Thuỷ, Vương Thu Hà, Nguyễn Quang Trung, Lê Tuấn Linh // .- 2024 .- Tập 185 - Số 12 - Tháng 12 .- Tr. 386-392 .- 610
Báo cáo một trường hợp giảm áp lực nội sọ (GALNS) hiếm gặp, bệnh nhân (BN) nữ 30 tuổi vào viện vì đau đầu theo tư thế kéo dài 2 tuần, tiền sử sinh con đường âm đạo có sử dụng giảm đau bằng gây tê ngoài màng cứng vùng thắt lưng trước đó 1 tháng. Trên phim MRI sọ não có hình ảnh điển hình của GALNS gồm dày và ngấm thuốc lan tỏa màng cứng, phồng xoang tĩnh mạch, phì đại tuyến yên và tụt thấp trung não.
236 Báo cáo ca bệnh hạ natri máu do nhiễm giun lươn ở bệnh nhân suy thượng thận do thuốc / Nông Thuỳ Linh, Nguyễn Thị Thanh Hương // .- 2024 .- Tập 185 - Số 12 - Tháng 12 .- Tr. 393-397 .- 610
Hạ Natri máu do hội chứng tiết hormon chống bài niệu không phù hợp ( SIADH) liên quan đến nhiễm giun lươn là trường hợp hiếm gặp. Cơ chế gây bệnh chưa rõ ràng. Trong bài báo này, chúng tôi báo cáo trường hợp bệnh nhân nam 51 tuổi vào viện vì buồn nôn, mệt mỏi. Qua khám lâm sàng, xét nghiệm, chúng tôi phát hiện bệnh nhân hạ natri máu nặng do hội chứng SIADH. Tìm các nguyên nhân gây bệnh, xét nghiệm phân và máu cho kết quả bệnh nhân nhiễm giun lươn. Điều trị giun lươn giúp cải thiện tình trạng hạ natri máu.
237 Báo cáo 5 trường hợp viêm não hệ viền do kháng thể kháng LGI1 / Lê Văn Thuỷ, Phan Duy Phúc, Lê Thị Ngọc, Nguyễn Thị Hiền // .- 2024 .- Tập 185 - Số 12 - Tháng 12 .- Tr. 398-407 .- 610
Mô tả 5 trường hợp lâm sàng viêm não hệ viền do kháng thể kháng LGI1 được chẩn đoán và điều trị tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội trong 2 năm 2023 và 2024, gồm 4 nữ và 1 nam, trong độ tuổi từ 26 đến 75, nhập viện với các chẩn đoán ban đầu khác nhau như rối loạn tâm thần, co giật phân ly... Triệu chứng quan trọng để hướng tới chẩn đoán lâm sàng viêm não hệ viền trong các ca bệnh này là các cơn co giật cục bộ với tư thế loạn trương lực ở vùng tay - mặt kèm suy giảm nhận thức tiến triển nhanh. Tất cả các ca bệnh đều cho đáp ứng tốt với corticoid liều cao nhưng có thể tái phát khi giảm liều. Các thuốc ức chế miễn dịch hàng thứ hai như mycophenolat mofetyl và rituximab có hiệu quả trong điều trị dự phòng tái phát bệnh ở những trường hợp này.
238 Nhiễm nấm trichosporon asahii đường tiết niệu ở bệnh nhân sau phẫu thuật tán sỏi nội soi niệu quản ngược dòng: Báo cáo nhân 1 trường hợp / Phạm Ngọc Minh, Cao Vân Huyền, Phạm Ngọc Duấn, Phạm Thị Bích Ngọc, Nguyễn Thị Huệ, Trần Kim Lâm, Hoàng Thị Phương Thanh, Vũ Thị Thu Băng, Đỗ Thái Sơn, Nguyễn Ngọc Bích // .- 2024 .- Tập 185 - Số 12 - Tháng 12 .- Tr. 408-411 .- 610
Trichosporon asahii là một tác nhân gây nhiễm trùng, thường gặp ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch và có tỉ lệ tử vong cao. Nhiễm nấm Trichosporon đôi khi có thể xảy ra ở bệnh nhân có hệ miễn dịch bình thường sau phẫu thuật hoặc điều trị kháng sinh kéo dài. Chúng tôi ghi nhận một trường hợp bệnh nhân nhiễm nấm đường tiết niệu sau điều trị nhiễm khuẩn huyết và tán sỏi nội soi niệu quản ngược dòng. Đây là một bệnh nhân nữ, 65 tuổi, nhập viện vì sốt kèm đau thắt lưng trái. Bệnh nhân được phát hiện nhiễm nấm ở ngày thứ 33 sau vào viện, điều trị bằng Voriconazol và xuất viện sau 3 ngày.
239 Bệnh u xơ cứng ở vú: Báo cáo ca bệnh và hồi cứu y văn / Phạm Thuần Mạnh, Trần Ngọc Minh, Phan Thị Huyền // .- 2024 .- Tập 185 - Số 12 - Tháng 12 .- Tr. 412-417 .- 610
U xơ cứng (DF) là u mô mềm tiến triển tại chỗ nhưng không di căn, thường gặp ở mạc treo, thành bụng và chi. DF ở vú là rất hiếm, chỉ chiếm 0,2% các u của vú. Bệnh có biểu hiện rất giống với ung thư vú trên lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh, đồng thời có tỉ lệ tái phát cao. Ca bệnh là nữ giới, 50 tuổi, tự sờ thấy khối ở vú trái. Siêu âm và chụp nhũ ảnh tuyến vú nghi ngờ là ung thư vú, được phân loại BIRADS 5. Sinh thiết trước phẫu thuật là u tế bào hình thoi với đặc điểm hiền hòa, dương tính với β-Catenin, SMA, Ki67 (1%); âm tính với các dấu ấn pan-CK, ER và p63. Chẩn đoán trước phẫu thuật là Desmoid Fibromatosis. Chẩn đoán sau phẫu thuật là Desmoid Fibromatosis, diện phẫu thuật còn tế bào u. Tóm lại, DF ở vú là một u trung mô giáp biên ác, hiếm gặp, hay tái phát, dễ nhầm với ung thư trên lâm sàng, phải chẩn đoán dựa vào mô bệnh học và cần được phẫu thuật một cách rộng rãi.
240 Kết quả bước đầu của phẫu thuật nội soi cắt bàng quang toàn bộ điều trị ung thư bàng quang: Báo cáo loạt trường hợp bệnh / Trần Quốc Hoà, Nguyễn Đình Bắc // .- 2024 .- Tập 185 - Số 12 - Tháng 12 .- Tr. 418-424 .- 610
Ung thư bàng quang (UTBQ) là một trong số các loại ung thư thường gặp nhất của hệ tiết niệu. Tại thời điểm được chẩn đoán, đa số UTBQ đã xâm lấn lớp cơ. Vì vậy, mổ mở cắt bàng quang toàn bộ, nạo vét hạch chậu bịt được xem là phẫu thuật tiêu chuẩn ở các trường hợp này. Trong những năm gần đây, phẫu thuật nội soi cắt bàng quang toàn bộ đã được áp dụng thành công tại một số trung tâm trên thế giới và đã cho thấy đây có thể là một lựa chọn khả thi thay thế cho mổ mở trong điều trị bệnh lý này. Tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, mổ mở cắt bàng quang toàn bộ vẫn được xem là lựa chọn tiêu chuẩn trong điều trị UTBQ. Gần đây chúng tôi đã bước đầu triển khai thành công phẫu thuật nội soi (PTNS) cắt bàng quang toàn bộ và thu được một số kết quả tích cực. Tuy nhiên, đây vẫn còn là một phẫu thuật khó, tiềm ẩn nhiều nguy cơ, cũng như chưa có đủ bằng chứng để đánh giá hiệu quả về mặt ung thư học. Vì vậy, trong tương lai cần có nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn và thời gian theo dõi dài hơn để đánh giá hiệu quả thực sự của phương pháp này