CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

Khoa Y

  • Duyệt theo:
2201 Đánh giá kết quả vi phẫu nối bạch mạch tĩnh mạch trong di chứng phù bạch mạch sau điều trị ung thư vú / Trần Thị Nga, Vũ Quang Vinh // .- 2018 .- Số 5 .- Tr. 101-106 .- 610

Đánh giá kết quả sử dụng kỹ thuật siêu phẫu nối bạch mạch tĩnh mạch trong điều trị phù bạch mạch ở bệnh nhân sau phẫu thuật cắt bỏ vú do ung thư kết hợp vét hạch và xạ trị. Kết quả: nhóm I các tổn thương hầu như không có hoặc ít và mức độ tổn thương nhẹ, nhóm II; xuất hiện tất cả tổn thương trên: xơ hóa da, mô dưới da mức độ vừa và nặng gặp ở tất cả các trường hợp. Một số trường hợp nặng (giai đoạn V) mất toàn bộ lớp cơ trơn của thành bạch mạch. Kích thước giảm tại các vị trí mổ của chi sau 1 tuần: V1: 6,44+-0,41cm; V2: 5,09+-0,47 cm; V3: 6+-0,52. Giảm mạnh nhất tại V1 là 6cm. Số lượng cầu nối: Trung bình 3,44 cầu nối/ bệnh nhân. Đường kính mạch: nhỏ nhất: 0,3mm; lớn nhất:1 mm, trung bình: 0,66+-0,11 mm. Kết quả gần: tốt 91,67%; vừa 8,33%. Kết quả xa: tốt 93,33; vừa 6,67%. Kết luận: Phương pháp nối bạch mạch - tĩnh mạch với kết quả bước đầu tốt, tình trạng lâm sàng được cải thiện rõ ràng. Đây là kỹ thuật mới, an toàn, khả thi trong điều trị phù bạch mạch sau điều trị ung thư vú.

2202 Phân lập và tuyển chọn vi khuẩn Lactic từ một số loài cá nước lợ có khả năng kháng vi khuẩn Streptococcus iniae gây bệnh xuất huyết trên cá chẽm (Lates calcarifer) / Trương Thị Hoa, Nguyễn Ngọc Phước, Đặng Thị Hoàng Oanh // Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (TL Điện tử) .- 2018 .- Tr. 99-106 .- 610

Nghiên cứu được thực hiện nhằm phân lập và tuyển chọn các chủng vi khuẩn lactic từ ruột cá rô phi, cá chẽm và cá dìa nuôi thương phẩm tại Thừa Thiên Huế, có khả năng kháng vi khuẩn Streptococcus iniae gây bệnh xuất huyết trên cá chẽm. Đã phân lập được 61 chủng vi khuẩn lactic. Các chủng vi khuẩn này đều là vi khuẩn Gram dương, hình que hoặc hình cầu, không hình thành bào tử, không di dộng, phản ứng catalaza và oxidaza âm tính, có khả năng phân giải CaCO3 và không làm tan chảy gelatin. Trong 61 chủng vi khuẩn lactic phân lập được, có 28 chủng có khả năng kháng Streptococcus iniae, trong đó có 3 chủng C21, D1, D7 có khả năng kháng mạnh. Kết quả định danh 3 chủng C21, D1 và D7 bằng phương pháp giải trình tự gien xác định 3 chủng trên có trình tự nucleotit của đoạn gien 16S rARN tương đồng cao (100%) với trình tự nucleotit đoạn của gien 16S rARN của các chủng vi khuẩn Lactobacillus fermentum-MF108806.1, Lactobacillus fermentum-MF108743.1, Lactobacillus fermentum MF108772.1 trên ngân hàng gien. Dựa vào cây phát sinh thể hiện mối quan hệ di truyền thì các chủng C21, D1, và D7 là Lactobacillus fermentum.

2203 Thực trạng nhiễm ấu trùng sán lá Cercariae ở ốc trong ao nuôi cá thuộc mô hình VAC ở miền Bắc Việt Nam / Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Thị Hằng, Phạm Thị Linh // Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (TL Điện tử) .- 2018 .- Số 14 .- Tr. 78-84 .- 610

Các ao nuôi theo mô hình VAC ở miền Bắc Việt Nam được biết là điểm nóng của việc lan truyền bệnh sán lá có nguồn gốc thực phẩm. Nghiên cứu theo thời gian được thực hiện tại 4 tỉnh: Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình và Thanh Hóa nhằm điều tra về thực trạng nhiễm ấu trùng sán lá cercariae ở ốc trong ao tại các điểm nghiên cứu này. Ốc được thu từ 99 ao, gồm 18 ao cá thịt và 81 ao cá giống phục vụ nghiên cứu. Đã xét nghiệm 26.464 mẫu ốc của 13 loài theo phương pháp thải vỏ lột. Sự nhiễm ấu trùng sán lá được phát hiện ở 32/99 ao, gồm 9 ao cá thịt (50%) và 23 ao cá giống (28,4%) bao gồm 5 nhóm cercariae khác nhau. Chỉ 5 loài ốc được phát hiện thải cercariae , gồm: M.tuberculata, S. riquetii, T. granifera, L. swinhoei và B.fuchsiana. Sự khác biệt về thành phần loài ốc, số lượng ốc của từng loài, tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá có ý nghĩa thống kê khi so sánh giữa các địa điểm nghiên cứu, loại ao nghiên cứu, giữa các loài ốc với nhau. Ao cá của mô hình VAC tiếp tục là điểm nóng của việc truyền bệnh sán lá , bất kỳ chiến lược nào sử dụng để kiểm soát bệnh sán lá cũng cần phải chú ý tới sự tồn tại của các loài ốc nước ngọt trong ao nuôi thủy sản cũng như trong môi trường tự nhiên.

2204 Phương thức lây truyền của ký sinh trùng Perkinsus olseni (Lester & Davis, 1981) và thử nghiệm bị bệnh trong điều kiện thí nghiệm / Phạm Quốc Hùng, Ngô Thị Ngọc Thủy, Nguyễn Thị Hồng Nhung // .- 2018 .- Số 05 .- Tr. 90-94 .- 610

Ký sinh trùng đơn bào Perkinsus olseni là một tác nhân gây chết hoàng loạt và nghiêm trọng cho nhiều loại động vật thân mềm hai mảnh vỏ tại nhiều quốc gia trên thế giới. Việc tìm ra các phương thức lây truyền cũng như biện pháp phòng ngừa và điều trị là cần thiết để giảm thiểu thiệt hại do chúng gây ra. Nghiên cứu này đã tiến hành đánh giá khả năng điều trị ký sinh trùng P.olseni bằng Desferrioxamine. Kết quả các thí nghiệm đã cho thấy P.olseni có thể lây truyền giữa các cá thể cùng loài và các cá thể khác loài. Desferrioxamine ở liều lượng 15 và 30 mg/L bước đầu cho thấy có khả năng làm giảm cường độ nhiễm P.olseni ở nghêu Bến Tre.

2205 Thử nghiệm Kit CATT để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng cho trâu tại tỉnh Tuyên Quang / Phạm Thị Trang, Nguyễn Thị Kim Lan, Phạm Công Hoạt // Khoa học và Công nghệ (Điện tử) .- 2017 .- Số 8 .- Tr. 125-130 .- 610

Thử nghiệm Kit CATT để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng cho trâu tại tỉnh Tuyên Quang, kết quả cho thấy Kit CATT có độ nhạy của phản ứng là 100%, độ đặc hiệu là 98,68%. So sánh hiệu quả của sử dụng kỹ thuật Kit CATT với kỹ thuật ELISA, PCR và tiêm truyền chuột nhắt trắng trong chẩn đoán bệnh tiên mao trùng cho thấy, phương pháp tiêm truyền chuột phát hiện 100% số trâu nhiễm hoặc không nhiễm tiên mao trùng, kỹ thuật PCR có độ nhạy là 100% và độ đặc hiệu là 98,35%, kỹ thuật ELISA có độ nhạy là 98,48% và độ đặc hiệu là 97,11%, Kit CATT có độ nhạy là 98,48% và 97,52%.

2206 Đánh giá khả năng ức chế vi khuẩn Helicobacter pylori của một số dịch chiết thảo dược Việt Nam / Đỗ Thị Thanh Trung, Phạm Thị Vui, Nguyễn Huyền Trang // Khoa học & Công nghệ Việt Nam (Điện tử) .- 2018 .- Số 07 .- Tr. 23-27 .- 610

Cao chiết methanol và ethyl acetat của 30 thảo dược, đạt hàm lượng 3,43-35,29%, được đánh giá khả năng ức chế sự phát triển của vi khuẩn Helicobacter pylori (HP). Khảo sát sự có mặt của 3 chất đã được chứng minh có tác dụng ức chế HP gồm quercetin, berberin và acid glycyrrhizic bằng phương pháp sắc ký lớp mỏng cho thấy berberin phổ biến hơn 2 chất còn lại (20/30 loại thảo dược), 10/30 thảo dược ức chế mạnh sự phát triển của vi khuẩn HP với đường kính vòng kháng khuẩn 12-42 cm, trong đó, 8/10 loài chứa berberin và 7/10 loài chứa quercetin. Trong đó, cao chiết đỗ rừng và trầu không chứa nhiều chất khác quercetin, berberin và acid glycyrrhizic nên được lựa chọn để chiết tách và phân lập các hợp chất tiềm năng cho thử nghiệm tác dụng ức chế HP trong các nghiên cứu tiếp theo.

2207 Dây thìa canh - Dược liệu quý giúp điều trị bệnh tiểu đường / Phùng Tuấn Giang // Khoa học & Công nghệ Việt Nam (Điện tử) .- 2018 .- Số 08 .- Tr. 49-50 .- 610

Các nghiên cứu cho thấy, hoạt chất chính trong Dây thìa canh là gymnemic có tác dụng làm tăng tiết insulin của tuyến tụy, tăng cường hoạt lực của insulin, ức chế hấp thu glucose ở ruột... Chính nhờ hoạt chất này mà Dây thìa canh trở thành loại dược liệu quý và được nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng làm thuốc điều trị bệnh tiểu đường.

2208 Mặt trái của kháng sinh và thuốc tây / Trần Quốc Khánh // .- 2018 .- Số 08 .- Tr 43-45 .- 610

Một nửa số người sử dụng kháng sinh là không cần thiết, kháng sinh không có chỉ định sử dụng nhiều như mọi người vẫn nghĩ, kháng kháng sinh đang là vấn đề y tế nhức nhối toàn cầu, thuốc tây có thể gây ra những "ảnh hưởng khủng khiếp". Đó là những khẳng định có cơ sở khoa học và thực tiễn của chuyên gia, bác sỹ Trần Quốc Khánh (đang công tác tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức). Bên cạnh những cảnh báo, trong bài viết, bác sĩ Khánh cũng đưa ra những giải pháp để hạn chế lạm dụng thuốc tây như thực hành vệ sinh tốt, tiêm chủng đầy đủ theo khuyến cáo, tìm hiểu về thuốc trước khi sử dụng.

2209 Đánh giá kiến thức của bà mẹ sinh con lần đầu chăm sóc thời kỳ sau sinh và chăm sóc sơ sinh tại Bệnh viện Phụ sản Thái Bình / Bùi Minh Tiến // Y học cộng đồng (Điện tử) .- 2019 .- Số 5 .- Tr. 53-57 .- 610

Nghiên cứu đánh giá kiến thức của bà mẹ về chăm sóc sơ sinh của bà mẹ sinh con lần đầu tại Bệnh viện Phụ sản Thái Bình. Kết quả nghiên cứu cho thấy, đa số các bà mẹ biết sau sinh cần bổ sung rau xanh, nước uống và không dùng nước uống có gas (trên 78,0%) tuy nhiên việc bổ sung vi chất còn thấp chiếm 24,5%. Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về vệ sinh, lao động, nghỉ ngơi cao hơn 50,0% nhưng còn 66,9% bà mẹ có nhận thức sai về thời gian thể dục sau sinh. Trên 65% bà mẹ có kiến thức về việc nhận biết nguy cơ sức khỏe, bệnh tật và thời gian quan hệ tình dục sau sinh. Về kiến thức cho con bú và vệ sinh trẻ sơ sinh của các bà mẹ sinh con lần đầu còn chưa cao, có tới 53,5% trả ời sai về số lần cho trẻ bú trong ngày và thời gian cho trẻ bú, 58,8% trả lời sai về cách ngậm bắt vú. Tỷ lệ bà mẹ biết các dấu hiệu bất thường của trẻ cao như quấy khóc bỏ bú (99,6%), trẻ nôn trớ sau ăn (78,4%) và 89,4% các bà mẹ biết thời gian cần tiêm chủng cho trẻ sơ sinh.

2210 Thực trạng chỉ số sáng tạo của học sinh trường Tiểu học Đội Cấn thành phố Thái Nguyên và mối liên quan giữa một số yếu tố mối trường sống trong gia đình đến chỉ số sáng tạo thấp của trẻ / Dương Thị Anh Đào, Lê Thị Tuyết // Khoa học xã hội .- 2017 .- Số 3 .- Tr. 121-126 .- 610

Xác định thực trạng của chỉ số sáng tạo ở 1.757 học sinh tiểu học Đội Cấn, thành phố Thái Nguyên và tìm hiểu ảnh hưởng của một số đặc điểm môi trường sống của gia đình tới chỉ số sáng tạo của trẻ. Phương pháp xác định CQ là phương pháp trắc nghiệm sáng tạo vẽ hình. Kết quả cho thấy, đa số học sinh tiểu học Đội Cấn có mức sáng tạo thấp và trung bình. Cụ thể là có 31% học sinh ở mức sáng tạo kém; 24,2% ở mức sáng tạo thấp; 38,9% ở mức sáng tạo trung bình; 4,8% ở mức trung bình khá; chỉ có 1,1% ở mức sáng tạo khá và không có học sinh nào đạt mức độ sáng tạo cao và cực cao. Chỉ số sáng tạo không khác nhau giữa học sinh nam và học sinh nữ, tuy nhiên có sự khác biệt giữa chỉ số CQ các khối lớp. Trong một số yếu tố nghiên cứu liên quan đến môi trường sống gia đình cho thấy những trẻ không được sống cùng cha mẹ có chỉ số CQ thấp hơn những trẻ sống cùng cha mẹ, đặc điểm giáo dục nghiêm khắc của người cha làm giảm nguy cơ chỉ số CQ thấp của trẻ.