CSDL Bài trích Báo - Tạp chí
Khoa Xây Dựng
41 Nghiên cứu nâng cao độ bền sốc nhiệt của bê tông chịu lửa sử dụng cốt liệu bô xít thiêu kết / Trương Đức Tiệp, Nguyễn Thị Kim, Phạm Hoàng Anh // .- 2024 .- Số 5 .- Tr. 20-29 .- 620
Bài báo này nghiên cứu việc nâng cao độ bền sốc nhiệt của bê tông chịu lửa bằng cách thay thế một phần cốt liệu bô xít thiêu kết bằng cacbua silic (SiC). Kết quả cho thấy khi thay thế bô xít bằng SiC, bê tông chịu lửa có hệ số giãn nở nhiệt thấp hơn, độ bền sốc nhiệt tăng lên đáng kể. Tuy nhiên hàm lượng SiC thêm vào ảnh hưởng đến mật độ khối và tính chất cơ lý của sản phẩm. Trong điều kiện thử nghiệm, chỉ nên sử dụng tối đa hàm lượng SiC 15% để đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của sản phẩm.
42 Đánh giá các tính chất cơ học của bê tông cường độ cao kết hợp cát mịn cửa sông với tro bay và gia cường bằng sợi polypropylene / Lê Anh Thắng, Tô Minh Đoàn // Vật liệu Xây dựng (Điện tử) .- 2025 .- Số 5 .- Tr. 30 - 35 .- 620
Bài báo trình bày kết quả thực nghiệm xác định các tính chất cơ bản của bê tông cường độ cao gia cường sợi Polypropylene (PP). Hỗn hợp bê tông sử dụng được phối trộn từ vật liệu ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long nhằm giải quyết vấn đề thiếu cát. Bê tông khảo sát là bê tông cường độ cao, cấp độ bền B50. Hàm lượng sợi PP được khảo sát trong phạm vi rộng từ 0 đến 2,5% theo thể tích, nhằm tìm hàm lượng sợi PP tốt nhất cải thiện được các đặc tính bê tông khi tận dụng vật liệu địa phương. Vật liệu địa phương sử dụng trong hỗn hợp bê tông khảo sát gồm cát mịn cửa sông, tro bay. Kết quả thực nghiệm cho thấy, bê tông B50 sử dụng cát mịn cửa sông và tro bay, gia cường sợi PP 2% có các đặc trưng cơ học tốt nhất.
43 Nghiên cứu mô phỏng xác định khả năng chịu cắt của dầm bê tông cốt thanh polyme sợi thủy tinh được gia cường bằng bê tông cốt lưới dệt / Nguyễn Quang Sĩ, Bùi Thị Thanh Mai // Vật liệu Xây dựng (Điện tử) .- 2024 .- Số 5 .- Tr. 40-46 .- 620
Bài báo trình bày nghiên cứu mô phỏng số bằng phương pháp phần tử hữu hạn nhằm xác định ứng xử chịu cắt của dầm bê tông cốt composite polyme sợi thủy tinh (GFRP) được gia cường bằng bê tông cốt lưới dệt (TRC). Hình dạng vết nứt, đường cong lực - chuyển vị tại vị trí đặt lực, đường cong lực - biến dạng trong cốt dọc GFRP thu được từ kết quả mô phỏng số được so sánh với kết quả thí nghiệm. Kết quả cho thấy rằng, bê tông cốt lưới dệt mang lại hiệu quả cao trong việc gia cường khả năng chịu cắt của dầm bê tông cốt composite polyme. Ngoài ra, phương pháp gia cường TRC cũng được khảo sát để khảo sát sự hiệu quả đến ứng xử chịu cắt của dầm bê tông cốt composite polyme.
44 Chế độ nhiệt trong bê tông khối lớn ở giai đoạn hạ nhiệt / Lưu Văn Thực, Lê Quang Trung, Phan Xuân Thục // Vật liệu Xây dựng (Điện tử) .- 2024 .- Số 5 .- Tr. 47-57 .- 620
Một nghiên cứu mô phỏng số đã được thực hiện để điều tra chế độ nhiệt trong bê tông khối lớn ở giai đoạn hạ nhiệt. Phân tích trường ứng suất nhiệt độ trong khối bê tông sẽ được thực hiện bằng cách sử dụng công cụ phân tích nhiệt dạng dòng của phần mềm Midas/Civil. Độ tin cậy và tính chính xác của phương pháp số được đề xuất sẽ được chứng minh thông qua việc so sánh kết quả phân tích số với kết quả thu được từ thí nghiệm. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc kiểm soát nứt do nhiệt trong bê tông khối lớn ở giai đoạn hạ nhiệt là rất cần thiết.
45 Nghiên cứu đánh giá một số tính chất của gạch đất không nung gia cố xi măng / Nguyễn Trung Hiếu, Nguyễn Công Thắng, Trần Quốc Cường // Vật liệu Xây dựng (Điện tử) .- 2024 .- Số 5 .- Tr. 58-63 .- 620
Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu về một số tính chất của gạch đất không nung từ nguồn đất và xi măng ở địa phương hướng tới sử dụng cho xây dựng tường bao che cho các nhà xây một tầng ở vùng núi. Gạch đất không nung đạt được có cường độ nén lớn hơn 3,5 MPa, khối lượng thể tích từ 1800-2200 kg/m3 độ hút nước nhỏ hơn 20%, nhằm giảm thiểu sự khó khăn về vận liệu xây dựng và chi phí nhân công thực hiện. Điều này góp phần cho chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát cho các hộ nghèo.
46 Khảo sát ảnh hưởng của hàm lượng natri hydroxit đến cường độ chịu nén của hệ nền chất kết dính với hàm lượng lớn tro bay / Bùi Phương Trinh, Trần Quốc Khải, Phan Trung Anh // .- 2024 .- Số 5 .- Tr. 64 - 70 .- 620
Bài báo này tập trung khảo sát ảnh hưởng của hàm lượng natri hydroxit (NaOH) đến cường độ chịu nén của hệ nền chất kết dính (CKD) với hàm lượng lớn tro bay (cụ thể: 80, 85 và 90% theo khối lượng) nhằm tìm ra hàm lượng NaOH tối ưu để hướng đến việc sản xuất cốt liệu tro bay nhân tạo thay thế cốt liệu thiên nhiên trong sản xuất bê tông. Hàm lượng NaOH được thêm vào hệ nền là 0; 2,5; 3,0; 3,5 và 4,0% theo khối lượng. Tỷ lệ nước/CKD cho tất cả hệ nền là 0,22. Kết quả thực nghiệm đã chỉ ra rằng hàm lượng NaOH ảnh hưởng đáng kể đến cường độ chịu nén của hệ nền CKD với hàm lượng lớn tro bay. Việc sử dụng NaOH đã cải thiện cường độ chịu nén từ 8,6% đến 40,7% ở độ tuổi sớm (3 ngày tuổi) của tất cả hệ nền; và hệ nền chứa 3,5% NaOH có cường độ chịu nén đạt giá trị cao nhất. Tuy nhiên, đến 28 ngày tuổi, cường độ chịu nén của hệ nền đối chứng không chứa NaOH và hệ nền chứa 3,5% NaOH tương đương nhau. Kết luận rằng việc thêm NaOH đã giúp thúc đẩy sự phát triển cường độ chịu nén ở độ tuổi sớm của hệ nền CKD với hàm lượng tro bay lớn và hàm lượng NaOH tối ưu là 3,5% theo khối lượng.
47 Dự đoán khả năng chịu nén đúng tâm của cột ngắn ống thép nhồi bê tông mặt cắt hình vuông có khuyết tật khoảng hở hình tam giác ở góc cột / Nguyễn Quang Sĩ, Trần Xuân Ba, Hà Văn Anh Khoa // Vật liệu Xây dựng (Điện tử) .- 2024 .- Số 5 .- Tr. 71 - 78 .- 620
Bài báo trình bày nghiên cứu về xây dựng công thức xác định khả năng chịu nén đúng tâm của cột ngắn ống thép nhồi bê tông (CFST) có mặt cắt ngang hình vuông có khuyết tật là khoảng hở hình tam giác trong lõi bê tông ở góc cột bằng mô hình trí tuệ nhân tạo. 120 mẫu thí nghiệm thu thập từ các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới được làm cơ sở dữ liệu của nghiên cứu này. Để đánh giá ảnh hưởng khả năng chịu nén của loại cột này, các tham số được phân tích dựa trên phương pháp hồi quy kí tự QLatice. So sánh với dữ liệu từ kết quả thực nghiệm cho thấy, mô hình trí tuệ nhân tạo đưa ra dự báo tin cậy khi so sánh với kết quả từ thực nghiệm.
48 Khảo sát ảnh hưởng của việc lắp đặt hệ thống ống giải nhiệt đến trường nhiệt độ của khối đổ bê tông theo phương pháp mock-up / Nguyễn Ngọc Thành // Vật liệu Xây dựng (Điện tử) .- 2024 .- Số 5 .- Tr. 79 - 84 .- 620
Khảo sát ảnh hưởng của việc lắp đặt hệ thống ống giải nhiệt đến trường nhiệt độ của khối đổ bê tông trong vòng 7 ngày theo phương pháp Mock-up tại khuôn viên dự án điện gió Sóc Trăng. Trong nghiên cứu này, hai loại khối đổ bê tông có và không có lắp đặt hệ thống ống giải nhiệt với kích thước 2×2×2 m được thi công. Các cảm biến nhiệt độ được lắp đặt tại 7 vị trí trong khối đổ bê tông đối chứng không có lắp đặt hệ thống ống giải nhiệt (M0) và 6 vị trí trong khối đổ bê tông có lắp đặt hệ thống ống giải nhiệt (M1) để ghi nhận sự phát triển nhiệt độ trong bê tông. Cấp phối bê tông sử dụng cho hai khối đổ trong nghiên cứu này được thiết kế với cường độ chịu nén ở 7 ngày tuổi của mẫu lập phương (150×150×150 mm) tối thiểu 50 MPa và độ sụt 160 mm. Nhiệt độ từ hai khối đổ M0 và M1 được ghi nhận theo tần suất 1 giờ/lần với thời gian bắt đầu ghi nhận tính từ thời điểm đổ bê tông cho hai khối đổ. Kết quả cho thấy rằng hệ thống ống giải nhiệt cho bê tông đem lại hiệu quả trong việc làm giảm nhiệt độ cao nhất trong khoảng thời gian ngắn nhất và tốc độ hạ nhiệt cao hơn trong khối đổ. Tại vị trí điểm góc, nhiệt độ của khối đổ thấp hơn các vị trí khác, không phụ thuộc vào việc lắp đặt hệ thống ống gia nhiệt, và nguyên nhân có thể là do khoảng cách đến mép ngoài khối đổ nhỏ, dẫn đến việc thất thoát nhiệt trong quá trình lắp đặt lớp cách nhiệt.
49 Ảnh hưởng của thử nghiệm gia tốc thời tiết đến đặc trưng tính chất và cấu trúc của vật liệu HDPE/LLDPE/GYPSUM biến tính có mặt phụ gia chống cháy / Mai Đức Huynh, Nguyễn Tiến Minh, Hoàng Ngọc Huynh // .- 2025 .- Số 5 .- Tr. 85 - 93 .- 620
Thạch cao phế thải (hay còn gọi là gypsum) là sản phẩm phụ của quá trình sản xuất axit photphoric từ quặng apatit. Nó chủ yếu được lưu trữ tại các bãi xử lý của các nhà máy sản xuất, gây ô nhiễm môi trường do hàm lượng axit chưa được xử lý cao. Việc sử dụng thạch cao thải làm chất phụ gia gia cường và chống cháy cho vật liệu polymer composite có tiềm năng ứng dụng làm các sản phẩm như: cáp điện, ống gân xoắn... Trong nghiên cứu này, thạch cao thải được xử lý để loại bỏ tạp chất và axit trước khi biến tính bằng ethylene bis(stearamide) (EBS). Thạch cao biến tính được trộn với polyetylen tỉ trọng cao (HDPE), polyetylen tỉ trọng thấp mạch thẳng (LLDPE) và các chất phụ gia chống cháy trên thiết bị phối trộn Haake Polylab OS RheoDrive7. Ảnh hưởng của thạch cao biến tính và không biến tính đến các tính chất cơ học, khả năng chống cháy và hình thái cấu trúc của vật liệu polymer được thảo luận trong bài báo này. Ngoài ra, ảnh hưởng gypsum biến tính và không biến tính đến đặc trưng tính chất: cơ học, cấu trúc, độ bền màu, khả năng chống cháy sau khi được thử nghiệm gia tốc thời tiết sẽ được thảo luận chi tiết. Việc ứng dụng thạch cao thải góp phần phát triển các vật liệu chống cháy mới, bền thời tiết nhờ đó có thể đa dạng hóa nguồn tiêu thụ gypsum và giảm ô nhiễm môi trường.
50 Nghiên cứu ảnh hưởng của thành phần chất kết dính và hàm lượng kiềm đến cường độ của vữa kiềm hoạt hóa / Cao Nguyên Thi, Nguyễn Quốc Phong, Bùi Hữu Hiệp // Vật liệu Xây dựng (Điện tử) .- 2024 .- Số 5 .- Tr. 94 - 99 .- 620
Nghiên cứu trình bày ở đây áp dụng hệ vật liệu gồm tro bay và xỉ lò cao nhằm chế tạo ra chất kết dính thân thiện môi trường dạng geopolymer thay thế xi măng truyền thống. Chất hoạt hóa sử dụng là sodium metasilicate pentahydrate dạng khan và hàm lượng tro bay/xỉ lò cao là 30%, 40% và 50%; tỷ lệ Na2O được khảo sát ở các mức 5.0, 5.5 và 6.0. Ản hưởng của các thông số nêu trên được đánh giá thông quan sự thay đổi về cường độ chịu nén và uốn của các mẫu vữa tại các thời điểm 3, 7, 14, 28, 56 và 91 ngày tuổi so sánh mẫu với vữa xi măng truyền thống. Các mẫu vữa geopolymer được dưỡng hộ ở nhiệt độ phòng và không dùng nước dưỡng hộ hay các biện pháp gia nhiệt khác. Kết quả thí nghiệm cho thấy các mẫu vữa geopolymer có sự phát triển cường độ chịu nén và uốn sau 7 ngày tuổi và đạt được các giá trị tương đương mẫu vữa xi măng đối chứng. Ngoài ra, khi tỷ lệ Na2O sử dụng là 5.0 thì hàm lượng tro bay/xỉ lò cao 50/50 sẽ đạt được giá trị cường độ chịu nén và uốn tối ưu.





