CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

Khoa Kinh tế - Tài chính

  • Duyệt theo:
691 Các yếu tố tài chính tác động đến lợi nhuận công ty nông nghiệp niêm yết tại Việt Nam / Lê Xuân Thái, Trần Trung Chuyển // .- 2023 .- Số 11 (546) - Tháng 11 .- Tr. 64-75 .- 332

Mục tiêu chính của nghiên cứu này là đo lường ảnh hưởng của một số yếu tố tài chính đến lợi nhuận của các công là đồng nghiệp niêm về trên thị trường khoán Việt Nam (VNX). Số liệu sử dụng trong nghiên cứu được thu thập từ báo cáo tài chính của 70 công ty nông nghiệp niêm yết trong giai đoạn 2017 - 2021. Kết quả ước lượng bằng mô hình hồi quy FGLS cho thấy, đòn bẩy tài chính, tỷ lệ tài sản cố định có mối tương quan nghịch với lợi nhuận công ty và quy mổ công ty cổ mối tương quan thuận với lợi nhuận công ty đo bằng tỷ số ROA và ROE. Rủi ro do dịch COVID-19 có ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận công ty.

692 Ảnh hưởng của các yếu tố bên trong và bên ngoài tới năng lực cạnh tranh dịch vụ ngân hàng bán lẻ: trường hợp tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam / Hoàng Ngọc Phương // .- 2023 .- Số 11 (546) - Tháng 11 .- Tr. 86-101 .- 332.12

Các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng, năng lực cạnh tranh của dịch vụ ngân hàng xúc tiến, uy tín thương hiệu, năng lực tài chính, công nghệ và văn hóa doanh nghiệp. Nghiên cứu này sử dụng mô hình phương trình cấu trúc (SEM) và bộ dữ liệu khảo sát tại VietinBank cho thấy, sáu yếu tố bên trong ảnh hưởng tích cực đến khả năng cạnh tranh dịch vụ ngân hàng bán lẻ của VietinBank theo thứ tự ảnh hưởng giảm dần là: uy tín thương hiệu; năng lực tài chính; chất lượng dịch vụ, sản phẩm; công nghệ và xúc tiến.

693 Tiêu dùng năng lượng, thương mại và ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế / Phan Thị Thu Giang // .- 2023 .- Số 11 (546) - Tháng 11 .- Tr. 112-120 .- 330

Tăng trưởng kinh tế cao là mục tiêu quan trọng trong các chương trình nghị sự tại các quốc gia trong đó có Việt Nam, nhằm thực hiện mục tiêu đưa quốc gia vươn tới con đường thịnh vượng. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá tác động của tiêu dùng năng ượng và thương mại quốc tế đến tăng trưởng kinh tế. Qua phân tích định lượng, kết quả nghiên cứu cho thấy, tiêu dùng năng lượng có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, qua đó phản ánh vai trò rất quan trọng của an ninh năng lượng đối với tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu cũng khẳng định thương mại quốc tế có tác động tích cực đến tăng trưởng, đặc biệt là tại các phân vị thấp. Tuy vậy, chưa có bằng chứng rõ ràng của tác động FDI đến tăng trưởng.

694 Công bố thông tin ngân hàng xanh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam / Trần Nguyên Sa, Hạ Thị Thiều Dao // .- 2023 .- Số 318 - Tháng 12 .- Tr. 2-11 .- 332.12

Bài viết này nghiên cứu thực trạng công bố thông tin về hoạt động ngân hàng xanh của các ngân hàng thương mại niêm yết ở Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích chỉ số công bố thông tin đối với Báo cáo thường niên của các ngân hàng để tiến hành đánh giá thực trạng công bố hoạt động ngân hàng xanh của 20 ngân hàng thương mại niêm yết ở Việt Nam theo hướng dẫn của Bộ Tài chính tại Thông tư số 155/2015/TT-BTC và 96/2020/TT-BTC trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2022. Kết quả nghiên cứu nhận thấy, chỉ có 17/20 ngân hàng thương mại công bố thông tin ngân hàng xanh vào năm 2022, các tiêu chí công bố thông tin vẫn chưa được báo cáo đầy đủ, từ đó, nghiên cứu đưa ra những khuyến nghị khả thi cho sự phát triển việc công bố thông tin ngân hàng xanh tại Việt Nam.

695 Đầu tư xanh, phát triển tài chính, tăng trưởng kinh tế và khí thải CO2: Nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam / Ngô Thái Hưng, Nguyễn Yến Nhi, Phạm Thị Kim Xuyến, Võ Văn Thẩm // .- 2023 .- Số 318 - Tháng 12 .- Tr. 12-22 .- 332.1

Kết quả cho thấy GRE, FIN và GDP đều có ảnh hưởng mạnh mẽ đến lượng khí thải CO2; tuy nhiên mối quan hệ này thay đổi theo các phân vị khác nhau của từng cặp biến. Sự thay đổi này có thể là do điều kiện thị trường tài chính xanh, hay tốc độ tăng trưởng kinh tế mà nó có ảnh hưởng tiêu cực hay tích cực đến lượng khí thải CO2. Những phát hiện trong nghiên cứu khẳng định rằng đầu tư xanh là chiến lược tốt nhất để có thể giảm lượng khí thải CO2, và đưa ra các chính sách hàm ý ngày càng nâng cao hơn nữa vai trò của đầu tư xanh hướng đến phát triển bền vững.

696 Liệu chính sách có ảnh hưởng đến quyết định cấp tín dụng cho các dự án xanh? – Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam / Lê Đức Lữ, Khúc Thế Anh, Bùi Kiên Trung // .- 2023 .- Số 318 - Tháng 12 .- Tr. 23-33 .- 332.1

Bài viết này tập trung trả lời câu hỏi: chính sách có ảnh hưởng đến việc lập kế hoạch và tài trợ cho các dự án xanh của các tổ chức tài chính không phải ngân hàng hay không? Nghiên cứu định tính được sử dụng để phỏng vấn các chuyên gia lý thuyết và thực tiễn nhằm hiệu chỉnh bảng hỏi, thang đo và thảo luận một số chính sách. Chúng tôi sử dụng SPSS26 và AMOS24 để xử lý 1.383 bảng hỏi thu thập từ khảo sát. Kết quả cho thấy chính sách của các cơ quan quản lý nhà nước và của chính các tổ chức có ảnh hưởng tích cực đến ý định và quyết định cấp tín dụng xanh. Dựa trên kết quả nghiên cứu, chúng tôi đưa ra một số hàm ý chính sách đến Chính phủ, ngân hàng nhà nước, các Bộ có liên quan (như Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Tài chính) và chính các tổ chức tài chính.

697 Quản lý thuế qua sàn giao dịch thương mại điện tử - pháp luật và thực tiễn / Khương Thị Quỳnh Hương // .- 2023 .- Số 318 - Tháng 12 .- Tr. 34-42 .- 657

Bài viết tập trung nghiên cứu việc quản lý thuế đối với các hoạt động kinh doanh qua sàn giao dịch thương mại điện tử. Mục tiêu của bài viết nhằm đúc kết các vấn đề pháp luật và thực tiễn trong quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh qua sàn thương mại điện tử để từ đó thấy được các bất cập và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thuế đối với lĩnh vực này. Dữ liệu của bài viết được thu thập trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành điều chỉnh về quản lý thuế trong lĩnh vực thương mại điện tử, các tài liệu và công trình nghiên cứu có liên quan, tài liệu phản hồi của các chủ thể kinh doanh về chính sách thuế của nhà nước đối với các giao dịch qua sàn thương mại điện tử... Kết quả nghiên cứu là một số kiến nghị nâng cao hiệu quả quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh trên sàn thương mại điện tử.

698 Nhân tố ảnh hưởng đến vận dụng kế toán quản trị tại các doanh nghiệp chế biến gỗ, tre, nứa / Trần Hằng Diệu // .- 2023 .- Số 814 .- Tr. 93-95 .- 657

Nghiên cứu nhằm làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến việc vận dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa ở Việt Nam qua khảo sát 331 doanh nghiệp. Kết quả cho thấy, 6 nhân tố: Trình độ công nghệ; Rủi ro đối với hoạt động sản xuất gỗ và chế biến các sản phẩm từ gỗ, tre, nứa; Nhận thức của chủ doanh nghiệp về kế toán quản trị; Trình độ chuyên môn của nhân viên kế toán; Chi phí cho việc thực hiện kế toán quản trị đều có ảnh hưởng đến việc vận dụng kế toán quản trị; Vận dụng kế toán quản trị giúp nâng cao hiệu quả hoạt động. Dựa trên kết quả nghiên cứu, tác giả đưa ra một số hàm ý chính sách nhằm nâng cao việc vận dụng kế toán quản trị tại các doanh nghiệp.

699 Kinh nghiệm quốc tế về phát triển logistics xanh hướng tới chuỗi cung ứng bền vững / Nguyễn Thị Lan Hương // .- 2023 .- Số 814 .- Tr. 96-98 .- 658.7

Do logistics có mối liên quan mật thiết với khí thải thương mại, các yếu tố xã hội và ô nhiễm nên Logistics xanh được xem là mắt xích quan trọng trong việc “xanh hóa” chuỗi cung ứng nhằm thúc đẩy phát triển bền vững. Chính phủ Việt Nam đã có những cam kết với cộng đồng quốc tế trong việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, giảm phát thải. Trong những năm tới, “Logistics xanh” được xem là xu thế và là yêu cầu tất yếu. Hiện nay, Chính phủ Việt Nam quan tâm đẩy mạnh chuyển đổi năng lượng theo hướng xanh hoá, phát triển ngành logistics thân thiện với môi trường. Do vậy, việc học hỏi và kết nối kinh nghiệm với các quốc gia có lĩnh vực logistics phát triển, là một bước quan trọng để chúng ta có thể xây dựng những chuỗi cung ứng hiệu quả và bền vững.

700 Giải pháp nâng cao giá trị cà phê xuất khẩu của Việt Nam / Trương Đăng Nghiệp // .- 2023 .- Số 814 .- Tr. 99-101 .- 658

Việt Nam là quốc gia xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trên thế giới. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, lượng cà phê xuất khẩu cả năm 2023 ước đạt khoảng 1,72 triệu tấn, giá trị đạt khoảng 4,2 tỷ USD. Tuy nhiên, thực trạng chung ngành Cà phê Việt Nam đang phải đối mặt là các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu tham gia vào những khâu mang lại giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị. Trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh các hợp tác kinh tế quốc tế và mở rộng các thị trường xuất khẩu, việc cung ứng các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp sẽ làm giảm hiệu quả và lợi thế cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu nói chung và của mặt hàng cà phê nói riêng. Trên cơ sở đánh giá thực trạng chuỗi cung ứng cà phê của Việt Nam, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao giá trị cho cà phê xuất khẩu của nước ta trong thời gian tới.