CSDL Bài trích Báo - Tạp chí
Khoa Kinh tế - Tài chính
291 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc nắm giữ tiền mặt của các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam / Vũ Thị Anh Thư, Nguyễn Hoàng Việt // .- 2024 .- Số 217 - Tháng 4 .- Tr. 51-65 .- 332.4
Nghiên cứu này phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc nắm giữ tiền (NGT) mặt của các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam. Hai biến kinh tế vĩ mô là bất định chính sách kinh tế toàn cầu và Việt Nam được sử dụng trong phân tích tác động bổ sung dựa trên mẫu nghiên cứu 337 doanh nghiệp phi tài chính đã phát hành chứng khoán ra công chúng được giao dịch tại Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE), Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) và thị trường công ty đại chúng chưa niêm yết (UPCOM – Unlisted public company market) trong giai đoạn 2015–2021. Kết quả nghiên cứu cho thấy tính bất định chính sách kinh tế Việt Nam, tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản, chính sách cổ tức và lưu chuyển tiền ròng tác động cùng chiều đến tỷ lệ NGT; trong khi đó, ảnh hưởng từ đòn bẩy tài chính, vốn lưu động phi tiền và quy mô doanh nghiệp góp phần làm suy giảm dự trữ tiền của doanh nghiệp.
292 Tác động của vốn đầu tư, lao động, hạ tầng đến tăng trưởng kinh tế Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam / Lâm Mỹ Hạnh, Đoàn Thanh Hà // .- 2024 .- Số 217 - Tháng 4 .- Tr. 66-78 .- 332.64
Bài viết nghiên cứu về tác động của vốn đầu tư, lao động và hạ tầng đến tăng trưởng kinh tế Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (KTTĐPN) giai đoạn 2005–2021. Kết quả từ mô hình bình phương bé nhất (OLS), mô hình tác động cố định (FEM), mô hình tác động ngẫu nhiên (REM) và mô hình bình phương tối thiểu tổng quát (GLS) đều cho thấy vốn Nhà nước (VNN) và vốn tư nhân (VTN) có tác động cùng chiều đến tổng sản phẩm nội địa (GDP) trong khi đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có tác động yếu đến tăng trưởng kinh tế. Điều này liên quan đến khả năng hấp thụ lan tỏa công nghệ và kinh nghiệm quản lý vốn FDI của từng khu vực. Ngược lại, biến lao động có tác động yếu đến GDP. Các biến đại diện cho hạ tầng như biến công nghệ thông tin (CNTT) được tính từ số lượng thuê bao điện thoại và internet không có tác động mạnh đến tăng trưởng kinh tế, trong khi biến vận chuyển hàng hóa (VCHH) gồm khối lượng VCHH đường bộ và đường thủy có tác động đến GDP.
293 Kiểm định lại mô hình tăng trưởng Mankiw–Romer–Weil (MRW): Bằng chứng và hàm ý chính sách / Nguyễn Thị Ngọc Nga // .- 2024 .- Số 217 - Tháng 4 .- Tr.79-87 .- 330
Nghiên cứu này nhằm kiểm định lại mô hình tăng trưởng Mankiw–Romer–Weil (MRW) bằng việc sử dụng hồi quy phi tuyến Bayes với tiên nghiệm có thông tin đặc thù cho hệ số co giãn của vốn. Nghiên cứu cho thấy, cách tiếp cận Bayes ưu việt hơn so với cách tiếp cận tần suất khi linh hoạt kết hợp thông tin tiên nghiệm về các tham số với thông tin từ dữ liệu, nhờ đó, mang lại kết quả tin cậy hơn. Kết quả ước lượng lại mô hình tăng trưởng MRW cho thấy giá trị của hệ số co giãn của vốn thực thể (VTT) tương đồng qua ba nhóm nước nhưng nhỏ hơn so với kết quả của MRW, trong khi giá trị hệ số co giãn của vốn nhân lực (VNL) tương đồng trong hai mẫu nhóm nước không xuất khẩu dầu và nhóm nước trung gian, đồng thời cũng lớn hơn kết quả của MRW. Ngoài ra, hệ số co giãn của VNL cao hơn hệ số của VTT ở cả ba nhóm nước.
294 Ảnh hưởng của vốn trí tuệ đến cấu trúc tài chính: Cách tiếp cận theo phương pháp Bayes / Bùi Đan Thanh, Nguyễn Thị Thu Thảo // .- 2024 .- Số 217 - Tháng 4 .- Tr. 88-99 .- 332.1
Nghiên cứu phân tích ảnh hưởng của vốn trí tuệ (VTT) đến cấu trúc tài chính (CTTC) của các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTM cổ phần) Việt Nam trong thời gian 2012–2022 thông qua dữ liệu từ báo cáo tài chính kiểm toán hàng năm của 26 ngân hàng và phương pháp hồi quy tuyến tính Bayes. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các biến có tác động ngược chiều đến CTTC là hiệu quả sử dụng vốn cấu trúc, hiệu quả sử dụng vốn con người, hiệu quả sử dụng vốn quan hệ, khả năng sinh lời và cấu trúc tài sản. Ngược lại, quy mô ngân hàng có tác động cùng chiều đến biến phụ thuộc. Nghiên cứu này không chỉ mang lại hiểu biết sâu sắc về VTT mà còn giúp ngân hàng đưa ra quyết định và chiến lược kinh doanh phù hợp để phát triển bền vững.
295 Các nhân tố tác động đến quyết định tiếp tục sử dụng ứng dụng đặt đồ ăn trực tuyến: Bằng chứng thực nghiệm trên ứng dụng ShopeeFood tại Thành phố Hồ Chí Minh / Trần Dục Thức, Tấn Lộc Louis, Trương Thị Minh Thu // .- 2024 .- Số 217 - Tháng 4 .- Tr. 100-118 .- 658
Nghiên cứu xác định và đo lường mức độ tác động của các nhân tố đến việc quyết định tiếp tục sử dụng ứng dụng (SDUD) đặt đồ ăn trực tuyến. Phương pháp phân tích SEM trên Smart PLS được sử dụng trong bài nghiên cứu để đánh giá dữ liệu phản hồi từ 199 người dùng ứng dụng ShopeeFood tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM). Kết quả phân tích cho thấy các nhân tố: giá cả, ảnh hưởng xã hội, sự tiện lợi và tin cậy đóng vai trò then chốt trong việc tác động đến quyết định tiếp tục sử dụng dịch vụ ShopeeFood tại địa bàn TP. HCM. Dựa trên kết quả phân tích, nghiên cứu đề xuất một số hàm ý quản trị nhằm tác động đến việc tiếp tục sử dụng dịch vụ đặt đồ ăn trực tuyến và điều này giúp củng cố năng lực cạnh tranh của ShopeeFood trong ngành.
296 Tác động của thuế tối thiểu toàn cầu đến thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam / Lê Quốc Hội, Nguyễn Xuân Hưng, Phùng Tú Uyên, Trần Thu Hương, Trịnh Thị Huyền Minh, Hoàng Thị Phương Anh // .- 2024 .- Số 322 - Tháng 04 .- Tr. 2-11 .- 332
Nghiên cứu này đánh giá tác động của Thuế tối thiểu toàn cầu (GMT) tới thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam. Nhóm tác giả dựa trên khung phân tích của UNCTAD (2022) và các phương pháp thống kê mô tả, so sánh để phân tích và đánh giá về mức độ tác động của GMT đến thu hút FDI. Kết quả nghiên cứu cho thấy, việc áp dụng GMT sẽ ảnh hưởng đến chiến lược thuế, chuyển dịch lợi nhuận, địa điểm đầu tư FDI và quy mô đầu tư FDI theo các mức độ và chiều hướng khác nhau. Từ những phân tích này, nhóm tác giả đề xuất một số khuyến nghị cho chính phủ Việt Nam nhằm hoàn thiện những chính sách liên quan đến GMT.
297 Tác động của đô thị hóa đến bất bình đẳng thu nhập: Nghiên cứu với dữ liệu cấp tỉnh ở Việt Nam / Nguyễn Thị Hoài Thu // .- 2024 .- Số 322 - Tháng 04 .- tR. 12-20 .- 330
Nghiên cứu này đánh giá tác động của đô thị hóa đến bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam với dữ liệu của 63 tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương trong giai đoạn 2015-2019. Kết quả từ mô hình tác động cố định cho thấy tồn tại mối quan hệ chữ U ngược giữa mức độ đô thị hóa và bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam. Đô thị hóa trong giai đoạn đầu làm gia tăng bất bình đẳng thu nhập, tuy nhiên sau khi vượt qua một ngưỡng nhất định, đô thị hóa làm giảm bất bình đẳng. Nghiên cứu này cho thấy bất bình đẳng ở các tỉnh của Việt Nam có xu hướng giảm xuống khi tỷ lệ đô thị hóa vượt qua ngưỡng khoảng 35,18%. Tỷ lệ này thấp hơn rất nhiều so với kết quả ở một số nghiên cứu trên thế giới, cho thấy quá trình đô thị hóa ở Việt Nam có tính bao trùm khá cao. Tuy nhiên với tỷ lệ đô thị hóa đang tương đối thấp ở nhiều tỉnh thành, đẩy mạnh đô thị hóa trong thời gian tới có nguy cơ làm gia tăng bất bình đẳng ở Việt Nam. Kết quả có được hàm ý rằng các chính sách hướng tới giảm bất bình đẳng thu nhập cần phù hợp với giai đoạn đô thị hóa ở các địa phương.
298 Tác động của phân cấp tài khóa đến bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam / Phạm Thu Hằng // .- 2024 .- Số 322 - Tháng 04 .- Tr. 21-28 .- 332
Kết quả nghiên cứu này tương đối thống nhất với các kết quả nghiên cứu quốc tế cho nhóm quốc gia phát triển trong giai đoạn những năm 1970 đến trước những năm 2000, đồng thời khá khác biệt so với nghiên cứu trong bối cảnh một số quốc gia đang phát triển trên thế giới. Để thúc đẩy quá trình thực hiện mục tiêu giảm bất bình đẳng thu nhập, chính quyền địa phương cần thực hiện tăng cường phân cấp tài khóa qua tăng nguồn thu; tăng cường minh bạch và kiểm soát tham nhũng tại địa phương; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cần đi kèm với chính sách phân phối thu nhập hợp lý, và kiểm soát gia tăng dân số nhằm thúc đẩy quá trình giảm bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam một cách hiệu quả.
299 Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển xuất khẩu bền vững hàng dệt may của Việt Nam sang EU / Trần Thùy Linh, Đỗ Đức Bình // .- 2024 .- Số 322 - Tháng 04 .- Tr. 29-39 .- 332
Nghiên cứu phát triển hệ thống tiêu chí đánh giá, phân tích nhân tố ảnh hưởng đến phát triển xuất khẩu bền vững hàng dệt may của Việt Nam sang Liên minh châu Âu (EU) bằng mô hình cấu trúc bình phương nhỏ nhất từng phần (PLS-SEM). Đây là một chủ đề ý nghĩa trong bối cảnh phát triển bền vững đang trở thành xu hướng tất yếu, cũng là cam kết đề ra trong Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) thế hệ mới với thị trường tiềm năng như EU. Phân tích thực nghiệm 286 doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam tháng 7-8 năm 2023 cho thấy nhân tố quy định về phát triển xuất khẩu bền vững hàng dệt may, khả năng đổi mới công nghệ, vốn nhân lực có tác động thuận chiều. Mức độ cạnh tranh cũng có ảnh hưởng tích cực - trái ngược với nhiều kết quả nghiên cứu trước tại các nước đang phát triển. Nghiên cứu đã khám phá thêm rằng truyền thông đại chúng, cam kết về phát triển bền vững trong FTA thế hệ mới và văn hóa nhân văn có tác động tích cực trong khi yêu cầu về quy tắc xuất xứ lại là một cản trở đáng kể.
300 Đo lường các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại Việt Nam / Phan Thị Linh // .- 2024 .- Số 322 - Tháng 04 .- tR. 60-69 .- 332.1
Nghiên cứu này dựa trên bộ dữ liệu của 25 ngân hàng thương mại Việt Nam và dữ liệu kinh tế vĩ mô Việt Nam giai đoạn 2017 – 2023, mô hình tuyến tính tổng quát được sử dụng để xác định các yếu tố đặc trưng của ngân hàng thương mại và yếu tố kinh tế vĩ mô tác động đến rủi ro tín dụng ngân hàng thương mại, cụ thể là nợ xấu (NPL). Kết quả nghiên cứu cho thấy Dự phòng rủi ro tín dụng (LLP), Đòn bẩy hoạt động của ngân hàng (Leverage) có tác động dương đến NPL, NPL không phụ thuộc vào quy mô ngân hàng (Size), hiệu quả hoạt động (Inefficiency), tăng trưởng tín dụng (Creditgrowth) và thu nhập ngoài lãi (Nonintincome), tỷ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE) có quan hệ ngược chiều đến NPL, tăng trưởng kinh tế (GDPgrowth) có tác động tích cực đến việc giảm tỷ lệ nợ xấu. Trong khi đó Tỷ giá (Ex), Lãi suất cho vay (IntM) và Lạm phát (Inf) gây áp lực nợ xấu cho ngân hàng.