CSDL Bài trích Báo - Tạp chí
Khoa Luật
51 Khái niệm, bản chất pháp lí của hoạt động chào bán chứng khoán / Trần Thị An Tuệ // .- 2024 .- Tháng 6 .- Tr. 98 – 111 .- 340
Xây dựng khái niệm là yếu tố tiền đề để hình thành và củng cố cơ sở lí luận trong khoa học pháp lí, giúp đảm bảo việc hiểu và áp dụng thống nhất các quy định pháp luật. Trong Luật Chứng khoản năm 2019, chào bán chứng khoán là một chế định quan trọng, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong giai đoạn tạo hàng cho thị trường. Tuy nhiên, hệ thống văn bản pháp luật về chứng khoán của Việt Nam từ trước đến nay vẫn chưa có quy định giải thích cụ thể khái niệm này. Từ thực trạng đó, bài viết tập trung phân tích bản chất pháp lí, xác định nội hàm của hoạt động chào bản chứng khoán nhằm đề xuất xây dựng định nghĩa thống nhất về chế định này, góp phần hoàn thiện pháp luật, tạo thuận lợi cho công tác thi hành luật và hình thành cơ sở lí thuyết cho hoạt động nghiên cứu trong lĩnh vực này.
52 Nhà đầu tư trái phiếu doanh nghiệp chào bán riêng lẻ tại thị trường trong nước – khung pháp lí và kiến nghị / Trần Thị Nhật Anh // .- 2024 .- Tháng 6 .- Tr. 112 – 122 .- 340
Xây dựng khái niệm là yếu tố tiền đề để hình thành và củng cố cơ sở lí luận trong khoa học pháp lí, giúp đảm bảo việc hiểu và áp dụng thống nhất các quy định pháp luật. Trong Luật Chứng khoản năm 2019, chào bán chứng khoán là một chế định quan trọng, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong giai đoạn tạo hàng cho thị trường. Tuy nhiên, hệ thống văn bản pháp luật về chứng khoán của Việt Nam từ trước đến nay vẫn chưa có quy định giải thích cụ thể khái niệm này. Từ thực trạng đó, bài viết tập trung phân tích bản chất pháp lí, xác định nội hàm của hoạt động chào bản chứng khoán nhằm đề xuất xây dựng định nghĩa thống nhất về chế định này, góp phần hoàn thiện pháp luật, tạo thuận lợi cho công tác thi hành luật và hình thành cơ sở lí thuyết cho hoạt động nghiên cứu trong lĩnh vực này.
53 Kinh nghiệm xây dựng khung pháp lí về tiền mã hoá của hoa kỳ và El salvador / Nguyễn Ngọc Phương Đình, Huỳnh Phan Như Ngọc // .- 2024 .- Tháng 6 .- Tr. 123 – 140 .- 340
Tiền mã hoá đang trở thành một phần không thể thiếu trong hệ thống tài chính toàn cầu, đem lại lợi ích đặc biệt song cũng đặt ra những thách thức riêng. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam chưa có khung pháp lí điều chỉnh rõ ràng về tiền mã hoả, điều này gây khó khăn trong quản lí và phát triển tiền mã hoá. Việc học hỏi từ kinh nghiệm của Hoa Kỳ và El Salvador, hai quốc gia có hệ thống pháp luật và phương pháp khác nhau nhưng đều thành công trong việc xây dựng khung pháp lí cho tiền mã hoá, sẽ giúp Việt Nam xây dựng một môi trường pháp lí an toàn và khuyến khích sự phát triển bền vững của tiền mã hoá. Bài viết làm rõ cần thiết phải có khung pháp lí về tiền mã hoá tại Việt Nam, khái quát những quy định pháp luật của Hoa Kỳ và El Salvador về tiền mã hoá và đưa ra quan điểm tại sao Việt Nam nên công nhận tiền mã hoá là tài sản.
54 Thực trạng nhận thức, áp dụng luật mềm ở Việt Nam và một số khuyến nghị / Nguyễn Minh Tuấn - Tổng Thị Phương // .- 2024 .- Số 12 (491) - Kỳ 2- Tháng 6 .- Tr.3 – 9 .- 340
Trên thế giới đương đại và đặc biệt trong xu thế mở rộng nguồn của pháp luật hiện nay, “luật mềm” ngày càng trở nên phổ biến. Thuật ngữ này được sử dụng để nói đến các công cụ không chính thức xác lập hiệu lực pháp lý, nhưng trên thực tế có thể đem lại những ảnh hưởng pháp lý nhất định khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thừa nhận và áp dụng. Trong bài viết này, các tác giả phân tích các quan niệm hiện nay về luật mềm, thực trạng nhận thức, áp dụng luật mềm ở Việt Nam và đề xuất một số khuyến nghị.
55 Suy luận tương tự dưới góc độ một phương pháp tư duy pháp lí và ý nghĩa đối với thực tiễn áp dụng luật / Đào Lệ Thu // .- 2024 .- Số 5 .- Tr. 3 – 12 .- 340
Bài viết cung cấp những nội dung lí luận về suy luận pháp lí tương tự - một trong các phương pháp tư duy pháp lí quan trọng và được sử dụng khá phổ biến trong thực tiễn áp dụng pháp luật ở các nước theo truyền thống common law và cũng đang dần được vận dụng ở những nước theo truyền thống civillaw. Cụ thể bài viết phân tích các vấn đề về bản chất của phép suy luận pháp lí tương tự, các bước suy luận pháp lí tương tự và ý nghĩa của việc sử dụng phương pháp này trong thực tiễn áp dụng luật.
56 Bốn thập kỉ đổi mới và xu hướng phát triển của luật hành chính Việt Nam / Bùi Tiến Đạt // .- 2024 .- Số 5 .- Tr. 13 – 27 .- 340
Luật hành chính Việt Nam là lĩnh vực khoa học pháp lí hình thành muộn và phát triển chậm. Lĩnh vực này ở Việt Nam vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc về lí luận và thực tiễn từ luật hành chính Xô Viết, chỉ thực sự hình thành như một khoa học pháp lí kể từ thời kì Đổi mới năm 1986 đến nay. Hiện nay, luật hành chính Việt Nam vẫn phản ánh một nền hành chính nhà nước đang trong quá trình chuyển đổi. Bài viết này đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của luật hành chính Việt Nam trong bốn thập kỉ gần đây, từ đó nhận định các xu hướng phát triển của luật hành chính Việt Nam trong tương lai. Trải qua gần 40 năm của thời kì Đổi mới, luật hành chính Việt Nam phần nhiều thể hiện một nền hành chính nhà nước phục vụ quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Trong quá trình chuyển đổi của thời kì Đổi mới, luật hành chính Việt Nam đã có những cải cách tích cực nhằm đổi mới nền quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả. Xu hướng phát triển của luật hành chính Việt Nam trong tương lai sẽ ngày càng thể hiện rõ những lí luận về nhà nước pháp quyền và bảo vệ quyền con người trên thực tế.
57 Giám sát điện tử đối với người chưa thành niên trước xét xử tại bang California, Anh và xứ Wales và gợi mở cho Việt Nam / Lê Huỳnh Tấn Duy, Nguyễ Phương Thảo // .- 2024 .- Số 5 .- Tr. 28 – 43 .- 340
Giảm sát điện tử đối với người chưa thành niên bị buộc tội trước khi xét xử đã được áp dụng ở một số nước trên thế giới nhưng còn khá mới mẻ đối với Việt Nam. Bài viết nghiên cứu quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng giảm sát điện tử đối với người chưa thành niên trước khi xét xử tại bang California (đại diện cho Hoa Kỳ), Anh và xứ Wales (đại diện cho Vương quốc Anh). Kết nghiên cứu cho thấy chế định này có những ưu điểm và hạn chế nhất định cần phải được tìm hiểu một cách đầy đủ, cẩn trọng trước khi quyết định có ghi nhận trong pháp luật Việt Nam hay không.
58 Tiếp cận chức năng của pháp luật dữ liệu và gợi mở cho Việt Nam / Huỳnh Thiên Tử, Lê Thùy Khanh // .- 2024 .- Số 5 .- Tr. 44 – 62 .- 340
Nhu câu phát triển kinh tế số và xã hội số đòi hỏi khung pháp lí tạo điều kiện để các chủ thể trao đổi dữ liệu số với rào cản tối thiểu. Bài viết giới thiệu cơ sở lí luận và ý nghĩa thực tiễn của mô hình tiếp cận chức năng đối với pháp luật dữ liệu. Trên cơ sở khảo sát, phân tích khung pháp lí hiện hành và chỉ ra một số hạn chế các quy phạm quyền đối với dữ liệu trong pháp luật Việt Nam, bài viết chỉ ra rằng việc nhìn nhận dữ liệu thông qua chức năng và lợi ích mà nó mang lại cho chủ thể, thay vì dựa trên tính chất của các loại dữ liệu sẽ giúp giải quyết các hạn chế của khung pháp lí hiện tại. Qua đó, bài viết đưa ra một số định hướng để giải quyết các hạn chế và hướng tới việc đồng bộ hoá lĩnh vực pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên quan đến dữ liệu ở Việt Nam.
59 Sự sáng tạo của trí tuệ nhân tạo trong nối liên hệ với pháp luật về quyền tác giả / Lê Thị Minh // .- 2024 .- Số 5 .- Tr. 63 – 79 .- 340
Cho đến nay, người ta vẫn nhận thức rộng rãi rằng chỉ có con người mới có thể sáng tạo. Nhận thức hiển nhiên này đang bị thách thức bởi công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI). Bài viết trình bày quan điểm của pháp luật sở hữu trí tuệ truyền thống cho rằng sáng tạo là hoạt động của con người tự nhiên và do đó chỉ tác phẩm được tạo ra bởi con người mới xứng đảng được bảo hộ. Bên cạnh đó, bài viết cũng trình bày các quan điểm khác nhau trong việc việc xem xét AI có thể tham gia vào quá trình sáng tạo ở một mức độ nhất định. Qua đó bài viết xác định rằng để giải quyết vấn đề bảo hộ đối với tác phẩm do AI tạo ra, phải làm rõ mối liên hệ giữa quá trình tạo ra tác phẩm của AI với nhận thức lấy con người làm trung tâm của pháp luật quyền tác giả truyền thống.
60 Chứng khoán phái sinh : bản chất, nguồn gốc hình thành, sự tác động đối với pháp luật về chứng khoán và hợp đồng / Nguyễn Văn Tuyến // .- 2024 .- Số 5 .- Tr. 80 – 92 .- 340
Trong các nền kinh tế thị trường phát triển trên thế giới, chứng khoán phái sinh không còn là vấn đề xa lạ và mới mẻ. Tuy nhiên, đối với một nền kinh tế đang trong quá trình phát Việt Nam thì chứng khoán phái sinh chỉ mới bắt đầu xuất hiện trong Luật Chứng khoán cách đây không lâu và bắt đầu được đưa vào giao dịch trong thị trường chứng khoán khoảng năm năm trở lại đây. Không khó để nhận ra rằng sự xuất hiện của chứng khoản phải sinh đã có những tác động, ảnh hưởng nhất định đến hệ thống pháp luật nói chung, trong đó có pháp luật chứng khoán và pháp luật hợp đồng. Với mục đích nhận diện đầy đủ, rõ ràng hơn về chứng khoán phái sinh và những tác động của nó đối với hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về chứng khoán, hợp đồng nói riêng, kết quả nghiên cứu của bài viết được thể hiện tập trung ở hai vấn đề: 1) Làm rõ bản chất, nguồn gốc hình thành và các loại chứng khoán phái sinh; 2) Phân tích những tác động, ảnh hưởng của chứng khoản phái sinh đối với pháp luật chứng khoán và pháp luật hợp đồng trong bối cảnh thế giới đương đại.