CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

Khoa Luật

  • Duyệt theo:
1791 Giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực thi pháp luật về kiểm soát lợi ích nhóm ở Việt Nam / Lê Đinh Mùi // Nghề luật .- 2021 .- Số 1 .- Tr. 20 - 25 .- 340

Lợi ích từ lâu đã được thừa nhận và là động lực cho sự phát triển của xã hội. Kiểm soát lợi ích luôn là vấn đề có tính thời sự nhằm bảo đảm sự công bằng xã hội. Trên thực tế bên cạnh tính tích cực của lợi ích nhóm, những tác động tiêu cực của lợi ích nhóm trong đỏ nhóm lợi ích đặc quyền, đặc lợi tác động tới quá trình hoạch định và thực thi chính sách của các cấp quản lý, của nhà nước gây không ít khó khăn, cản trở sự phát triển lành mạnh của đất nước. Kiểm soát lợi ích nhóm theo nghĩa tiêu cực này cần được pháp luật điều chỉnh, nhằm ngăn chặn, xử lý nghiêm minh, kịp thời và khắc phục những hậu quả gây ra của nhóm lợi ích.

1792 Pháp luật về thương mại điện tử, một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện / Lê Đinh Mùi // Nghề luật .- 2021 .- Số 1 .- Tr. 26 - 30 .- 340

Thương mại điện từ, hay còn gọi là E — commerce (EC), là hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa và dịch vụ thông qua các phương tiện điện từ và Internet. Hoạt động này đã và đang mang lại nhiều lợi ích giúp thúc đẩy tăng trưởng kình tể, nhưng đồng thời cũng đang đặt ra những thách thức cho các cơ quan quản lý ưong việc xây dựng khung pháp lý điều chỉnh các hoạt động thương mại điện tử. Hiện nay, hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử còn chưa đồng bộ, vân còn một số bất cập, hạn chế. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đề cập đến tình hình phát triển thương mại điện tử tại Việt Nam, hệ thống pháp luật về thương mại điện tử hiện nay tại Việt Nam và một số bất cập, hạn chế, đề xuất, giải pháp để góp phần nâng cao hiệu quả quản lý về thương mại điện tử, cũng như ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật ưong hoạt động thương mại điện từ.

1793 Bảo đảm an ninh nguồn nước ở Việt Nam / Nguyễn Hồng Thao // Nghiên cứu Lập pháp .- 2021 .- Số 2 (426) .- Tr. 9-13 .- 340

Nước được coi là một nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại của con người và sự phát triển kinh tế, xã hội của từng nước cũng như cộng đồng quốc tế. Vấn đề an ninh và quản lý nguồn nước ngày càng trở nên quan trọng trong một thế giới phẳng, phụ thuộc và cạnh tranh lẫn nhau. Việt Nam là quốc gia được ưu ái về nguồn nước. Tuy nhiên, với sự phát triển dân số và kinh tế, an ninh nguồn nước của Việt Nam cũng đang bị đe dọa và cần phải có các biện pháp quản lý hữu hiệu.

1794 Trí tuệ nhân tạo được ứng dụng trong chuẩn đoán bệnh: sản phẩm hay dịch vụ / Bùi Nguyễn Trà My, Nguyễn Hoàng Linh Đan // Nghiên cứu Lập pháp .- 2021 .- Số 2 (426) .- Tr. 14-22 .- 340

Bài viết phân tích các quy định của pháp luật hiện hành và lý thuyết về trí tuệ nhân tạo (AI); đưa ra khái niệm về “chẩn đoán bệnh”; làm rõ bản chất, chức năng của AI được ứng dụng trong chẩn đoán bệnh; đưa ra các tiêu chí để xác định một AI chẩn đoán bệnh là “sản phẩm” hay “dịch vụ” và nêu một số quy định về “trách nhiệm sản phẩm”, “trách nhiệm dịch vụ”; và phân tích việc áp dụng “IBM Watson for Oncology” trong chẩn đoán ung thư tại Việt Nam, xác định bản chất loại AI này nhằm tạo điều kiện cho việc quy trách nhiệm pháp lý khi có thiệt hại phát sinh trong tương lai.

1795 Chế độ tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam / Nguyễn Đình Huy, Bùi Thị Hằng Nga // Nghiên cứu Lập pháp .- 2021 .- Số 2 (426) .- Tr. 23-32 .- 340

Do đối tượng của hoạt động kinh doanh là rủi ro, là sự không chắc chắn, nên thực chất hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm là bán các lời hứa trong tương lai. Các lời hứa này chính là các cam kết chi trả về tài chính từ phía doanh nghiệp bảo hiểm cho các tổn thất khi người được bảo hiểm gặp rủi ro trên thực tế. Năng lực tài chính là một yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp bảo hiểm đảm bảo được khả năng chi trả cho những người đã tham gia bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Vì vậy, nhằm đảm bảo cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm hiệu quả, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng thì pháp luật cần có các quy định cụ thể về quản lý, giám sát để đảm bảo năng lực tài chính của doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ khi rủi ro gắn liền với sức khỏe, tính mạng và tuổi thọ của người được bảo hiểm.

1796 Mua bán bào thai – những khoảng trống pháp lý cần bổ sung, sửa đổi trong luật hình sự / Đỗ Cảnh Thìn, Nguyễn Thị Thuận // Khoa học & Công nghệ Đại học Duy Tân .- 2020 .- Số 3(40) .- Tr. 70-73 .- 345.597002632

Thời gian gần đây, tình trạng các đối tượng tổ chức cho phụ nữ mang thai ra nước ngoài để bán bào thai đang có xu hướng gia tăng, diễn biến phức tạp. Đến nay, các cơ quan chức năng vẫn lúng túng trong việc xử lý, phần nhiều là do còn “khoảng trống” trong quy định của pháp luật. Bài viết dưới đây xin phân tích, làm rõ những vướng mắc về mặt pháp lý trong xử lý các vụ việc này.

1797 Quan niệm về nạn nhân, bảo vệ nạn nhân của tội phạm trong qui định của pháp luật Việt Nam / Đỗ Cảnh Thìn, Nguyễn Thị Thiên Trinh // Khoa học & Công nghệ Đại học Duy Tân .- 2020 .- Số 3(40) .- Tr. 74-79 .- 340

Nghiên cứu yếu tố nạn nhân của tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng pháp luật cũng như trực tiếp áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về vấn đề này còn chưa được quan tâm nhiều ở nước ta. Bài viết dưới đây xin đề cập những nhận thức chung về nạn nhân và bảo vệ nạn nhân của tội phạm trong qui định của pháp luật Việt Nam, qua đó góp phần làm sáng tỏ thêm về nhận thức và nâng cao hiệu quả công tác xây dựng và thực thi pháp luật ở nước ta theo tinh thần cải cách tư pháp.

1798 Về phương pháp dạy học đại học trong thời kì cách mạng công nghệp 4.0 tại Trường Đại học Duy Tân / Nguyễn Thị Thuận, Lương Thị Bích Ngân, Nguyễn Thị Kim Tiến // Khoa học & Công nghệ Đại học Duy Tân .- 2020 .- Số 3(40) .- Tr. 80-85 .- 371.1

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra từ đầu thế kỷ 21 là cách mạng dựa trên nền tảng công nghệ số, nhằm xây dựng thế giới siêu kết nối và tích hợp công nghệ thông minh. Đây là cuộc cách mạng tác động mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực và khía cạnh trong đời sống xã hội, trong đó có giáo dục - đào tạo. Chính vì vậy, việc nhấn mạnh yêu cầu xã hội và bước đầu nhìn nhận đúng đắn về cách mạng số tại Việt Nam nhằm nâng cao nhận thức của giảng viên và sinh viên về giáo dục thời đại mới là một yêu cầu cần thiết, đảm bảo quyền tiếp cận và trao đổi tri thức gắn liền với điều kiện xã hội, cũng như kết nối có hiệu quả mối quan hệ 3 bên: sinh viên - giảng viên - doanh nghiệp. Xây dựng một hệ sinh thái giáo dục linh hoạt, rộng mở trên nền tảng bài giảng của giảng viên, tất yếu dẫn đến cải cách phương pháp giảng dạy- cơ sở truyền đạt của giảng viên với sinh viên.

1799 Quyền, nghiã vụ của người khía nại, người bị khiếu nại theo luật khiếu nại năm 2011 / Bùi Thị Đào // Nghiên cứu Lập pháp .- 2021 .- Số 2 (426) .- Tr. 32-37 .- 340

Theo Luật Khiếu nại năm 2011, cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền đề nghị người có thẩm quyền xem xét lại tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính; cán bộ, công chức có quyền đề nghị người có thẩm quyền xem xét lại tính hợp pháp của quyết định kỷ luật khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Việc khiếu nại của cơ quan, tổ chức, cá nhân, cán bộ, công chức (gọi chung là người khiếu nại) sẽ làm phát sinh các quan hệ pháp luật giữa người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại với người khiếu nại, người có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật cán bộ, công chức bị khiếu nại (gọi chung là người bị khiếu nại). Trong các quan hệ đó, mỗi bên đều có những quyền, nghĩa vụ nhất định. Trong phạm vi bài viết này, tác giả bàn về quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại, người bị khiếu nại trong giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính và trong giải quyết khiếu nại quyết định kỷ luật cán bộ, công chức, đồng thời có so sánh với quyền, nghĩa vụ của người khởi kiện, người bị kiện trong vụ án hành chính.

1800 Nghiên cứu về thực hiện các chính sách cho dân tộc thiểu số ở Singapore / Phan Thị Nhật Tài, Nguyễn Thị Thu Na, Nguyễn Lê Hà Thanh Na // Khoa học & Công nghệ Đại học Duy Tân .- 2020 .- Số 3(40) .- Tr. 104-112 .- 340

Singapore được xem là một trong bốn con rồng Châu Á. Người dân Singapore được hưởng một môi trường kinh tế mở cửa đa dạng, lành mạnh, thu nhập bình quân đầu người vào hàng cao nhất thế giới. Tăng trưởng dân số và GDP ở Singapore cao trung bình 9,2% trong suốt 25 năm đầu tiên sau độc lập. Năm 2019, Singapore có tổng số dân là 5.804.337 và tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu người ở Singapore 65.233 đô la Mỹ[1]. Đạt được điều đó, không thể không kể đến chính sách pháp luật hiệu quả, tính hợp lý trong chính sách về dân tộc thiểu số ở Singapore, và những nội dung này sẽ được tác giả trình bày trong bài viết.