CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

Khoa Luật

  • Duyệt theo:
1231 Hoãn phiên tòa sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam / Lê Nguyên Thanh // Khoa học pháp lý .- 2021 .- Số 6(145) .- Tr.93-105 .- 345.5970026

Hoãn phiên tòa sơ thẩm là thủ tục cho phép dừng việc xét xử sơ thẩm trong một thời hạn nhất định để đảm bảo xét xử lại vụ án hợp pháp, khách quan và công bằng. Tuy nhiên, quy định về hoãn phiên tòa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 còn thiếu xót, vướng mắc liên quan đến các trường hợp hoãn phiên tòa, thẩm quyền và thủ tục hoãn phiên tòa. Do đó, thực tiễn xét xử có sự áp dụng thiếu thống nhất trong các quy định về hoãn phiên tòa, tình trạng hoãn phiên tòa không đúng căn cứ, không đúng thủ tục, hoãn phiên tòa nhiều lần và kéo dài làm ảnh hưởng đến hoạt động xét xử. Bài viết trình bày và đưa ra các giải pháp để bảo đảm hiệu quả áp dụng các qui định về hoãn phiên tòa sơ thẩm.

1232 Sự tham gia của công chúng vào thực thi các qui định phi thương mại trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam / Hà Ngọc Quỳnh Anh, Đinh Văn Toàn, Trần Quốc Minh // Khoa học pháp lý .- 2021 .- Số 7(146) .- Tr.1-19 .- 346.5970702632

Nhận thức được vai trò quan trọng của công chúng trong quá trình thực thi các qui định phi thương mại, một số hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam tham gia đã hàm chứa các cơ chế về sự tham gia của công chúng. Các cơ chế đó tiếp tục được bổ sung và đảm bảo thực thi bằng những qui định của pháp luật nội địa của một số bên tham gia trong đó có Hoa Kỳ hay Liên minh Châu Âu. Do đó, bài viết tập trung làm rõ nội dung của các cơ chế có liên quan cũng như phân tích một số vấn đề đặt ra đối với Việt Nam khi thực thi những cơ chế này.

1233 Bảo vệ các giá trị phi thương mại trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới từ thực tiễn giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới / Nguyễn Thị Anh Thơ, Trần Phương Anh // Khoa học pháp lý .- 2021 .- Số 7(146) .- Tr.20-32 .- 346.5970702632

Mặc dù các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới bao gồm các qui định và cam kết sâu hơn trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ,nhưng Việt Nam chưa từng tận cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ các hiệp định này. Đặt trong bối cảnh tính tương đồng của các cam kết của Việt Nam với tư cách là thành viên trong các điều ước thương mại quốc tế này, cũng như thực tiễn các tranh chấp trong WTO liên quan đến các giá trị thị phi thương mại rất phong phú và đa dạng, bài viết sẽ nghiên cứu thực tiễn giải quyết tranh chấp tại WTO liên quan tới các vấn đề bảo vệ sức khỏe con người, động thực vật.

1234 Thực thi cam kết về bảo vệ môi trường trong Hiệp định CPTPP và EVFTA - Bài học kinh nghiệm từ các vụ kiện trong WTO / Tào Thị Huệ, Ngô Trọng Quân // Khoa học pháp lý .- 2021 .- Số 7(146) .- Tr.33-41 .- 344.597 046

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership – CPTPP) và Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Liên Minh Châu Âu ( EU- Vietnam Free Trade Agreement - EVFTA) đều bao gồm các cam kết về bảo vệ môi trường trong hoạt động thương mại quốc tế. Thành viên của hai Hiệp định này do đó phải đồng thời tuân thủ nghĩa vụ về tự do hóa thương mại, cũng như bảo vệ môi trường trong các Hiệp định môi trường đa phương ( Multilateral Environment Agreement-MEA) được qui định

1235 Bảo vệ lợi ích phi thương mại của Việt Nam trong thương mại và đầu tư sản xuất năng lượng tái tạo khi thực hiện Hiệp định EVFTA / Trần Thị Thùy Dương, Nguyễn Xuân // Khoa học pháp lý .- 2021 .- Số 7(146) .- Tr.57-71 .- 344.597 046

Bảo vệ môi trường, giải quyết mối đe dọa biến đổi khí hậu đã trở thành mối quan tâm lớn của các bên đàm phán ký kết các Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam - Liên Minh Châu Âu nói riêng. Gần đây, Việt Nam đã ký kết Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam - Liên Minh Châu Âu(EVFTA), trong đó đề xuất việc thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo như một phương thức thay thế hữu hiệu các nguồn năng lượng truyền thống gây ô nhiễm. Bài Viết sẽ trình bày một số lợi ích pji thương mại của Việt Nam trong hoạt động thương mại và đầu tư năng lượng tái tạo, từ đó đánh giá mức độ bảo vệ này tại Chương VII EVFTA.

1236 Thực thi cam kết bảo vệ môi trường trong Hiệp định CPTPP và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam / Trần Linh Huân // Khoa học pháp lý .- 2021 .- Số 7(146) .- Tr.72-81 .- 344.597 046

Ngày 12/11/2018 Quốc Hội Việt Nam đã biểu quyết thông qua Nghị quyết phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương và trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp định. Xuất phát từ thực tế, bài viết tập trung(i) phân tích, làm rõ một số nội dung cam kết môi trường trong Hiệp định CPTPP, (ii) chỉ ra một số thách thức của Việt Nam trong việc tuân thủ thực thi các cam kết môi trường trong Hiệp định CPTPP, (iii) từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện.

1237 Bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế về dược phẩm trong bối cảnh đại dịch COVID-19 - nhìn từ khung pháp lý WTO và Hiệp định (CPTPP) / Ngô Nguyễn Thảo Vy, Nguyễn Quốc Hùng // Khoa học pháp lý .- 2021 .- Số 7(146) .- Tr.72-81 .- 346.597048

Bài viết này sẽ phân tích quyền tiếp cận dược phẩm trong thời kỳ COVID-19 với liên hệ cụ thể tới qui định về bắt buộc chuyển giao sáng chế của những hiệp định trong Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), nhằm đưa ra lưu ý cho Việt Nam với tư cách quốc gia ký kết các hiệp định này.

1238 Qui định về tự do dữ liệu trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới - tác động đối với pháp luật Việt Nam / Lê Trần Quốc Công // Khoa học pháp lý .- 2021 .- Số 7(146) .- Tr.94-103 .- 346.5970702632

Dữ liệu được xem là yếu tố không thể thiếu đối với các hoạt động thương mại điện tử xuyên biên giới. Vì thế, để thúc đẩy phát triển nền kinh tế số, dữ liệu cần phải được tự do truyền tải giữa các quốc và vùng lãnh thổ với nhau. Tuy nhiên đi ngược lại với xu thế này, vì quyền riêng tư và an ninh mạng, bằng cách này hay cách khác, một số quốc gia lại lựa chọn cách tiếp cận và cản trở sự tự do dữ liệu. Đối mặt với nghịch lý này, Việt Nam cũng không ngoại lệ, đặc biệt là với các cam kết trong những hiệp định thương mại thế hệ với như CPTPP và EVFTA. Vấn đề đặt ra là, Việt Nam phải mở cửa tự do dịch chuyển dữ liệu như tế nào và tác động của nó đối với hệ thống pháp luật hiện nay của Việt Nam ra sao? Các vấn đề đó sẽ được phân tích trong bài viết này.

1239 Tư duy về xây dựng chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 (Phần 01) / Võ Khánh Vinh // Khoa học pháp lý .- 2021 .- Số 8(147) .- Tr.1-19 .- 340

Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xây dựng chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 bao gồm ít nhất những vấn đề cơ bản sau: tên gọi, tầm nhìn, cách tiếp cận xây dựng, mục tiêu đột phá, các quan điểm chỉ đạo, định hướng, nội dung, phương tiện, hình thức, giải pháp thực hiện, giai đoạn hóa Chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam. Ở đây có hai chiều tiếp cận: (i) tiếp cận học thuyết hóa Chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam, (ii) tiếp cậnchiến lược hóa học thuyết về Chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam Chiều tiếp cận học thuyết hóa Chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam tập trung luận giải các vấn đề lý luận về Chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam. Chiều tiếp cận học thuyết hóa học thuyết về Chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam tập trung vào việc hiện thực hóa học thuyết về Chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam. Bài viết này luận giải tư duy về những vấn đề lý luận và thực tiễn ở mức độ khái quát nhất hai chiều tiếp cấn đó của việc xây dựng Chiều tiếp cận thuyết hóa Chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam tập trung luận giải các vấn đề lý luận về Chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam.

1240 Hoàn thiện pháp luật quản lý hiệu quả tài nguyên nước / Nguyễn Hương // Tài nguyên & Môi trường .- 2022 .- Số 8 (382) .- Tr. 58-59 .- 340

Trước thực trạng biến đổi khí hậu và ô nhiễm nguồn nước diễn ra tương đối nghiêm trọng, cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quản lý tài nguyên nước; thu tiền khai thác, sử dụng tài nguyên nước, người gây ô nhiễm môi trường nước; xây dựng cơ chế kiểm tra, thanh tra, giám sát thường xuyên các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước.