CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

Khoa Y

  • Duyệt theo:
1601 Nghiên cứu tác dụng giảm đau của siro “Cốt vị vương Nam Hà” trên thực nghiệm / Trần Thái Hà, Nguyễn Việt Anh // Nghiên cứu Y dược học cổ truyền Việt Nam .- 2021 .- Số 70 .- Tr. 1-11 .- 610

Trình bày nghiên cứu tác dụng giảm đau của siro “Cốt vị vương Nam Hà” trên thực nghiệm. Đau là một cảm nhận thuộc về giác quan và xúc cảm do tổn thương đang tồn tại hoặc tiềm tàng ở các mô gây nên và phụ thuộc vào mức độ nặng nhẹ của tổn thương. Đau thường được phân loại theo cơ chế gây đau (đau cảm thụ - đau thần kinh – đau hỗn hợp – đau do nguyên căn tâm lý) và theo thời gian đau (đau cấp tính – đau mạn tính). Kết quả nghiên cứu cho thấy “Cốt vị vương Nam Hà” có tác dụng giảm đau trên cả ba mô hình nghiên cứu: gây đau bằng tiêm acid acetic màng bụng, gây đau bằng mâm nóng, gây đau bằng máy đo ngưỡng đau.

1602 Tác dụng chống viêm của “Tần giao thiên ma thang” kết hợp với điện châm và xoa bóp bấm huyệt trong điều trị viêm khớp dạng thấp giai đoạn I và II / Nguyễn Thị Bích, Ngô Quỳnh Hoa, Nguyễn Văn Phúc // Nghiên cứu Y dược học cổ truyền Việt Nam .- 2021 .- Số 70 .- Tr. 12-21 .- 610

Nghiên cứu trình bày tác dụng chống viêm của “Tần giao thiên ma thang” kết hợp với điện châm và xoa bóp bấm huyệt trong điều trị viêm khớp dạng thấp giai đoạn I và II. Viêm khớp dạng thấp là một bệnh đặc trưng bởi quá trình viêm mạn tính các khớp có tính chất đối xứng. Bệnh không những làm ảnh hưởng đến sinh hoạt và khả năng lao động của người bệnh mà còn để lại di chứng như đau kéo dài, biến dạng khớp làm hạn chế hoặc mất vận động của khớp. Kết quả nghiên cứu cho thấy thuốc sắc “Tần giao thiên ma thang” kết hợp với điện châm và xoa bóp bấm huyệt có hiệu quả chống viêm tốt trong điều trị viêm khớp dạng thấp giai đoạn I và II.

1603 Phát ban và viêm niêm mạc do Mycoplasma pneumoniae có thể nhầm lẫn với tình trạng dị ứng : báo cáo ca bệnh / Đỗ Thị Đài Trang, Nguyễn Văn Lâm, Dương Thị Hồng Vân // Nghiên cứu Y học - Trường ĐH Y Hà Nội .- 2021 .- Số 09(Tập 145) .- Tr. 278-286 .- 610

Nghiên cứu báo cáo một trường hợp phát ban và viêm niêm mạc do Mycoplasma pneumoniae có thể nhầm lẫn với tình trạng dị ứng. Mycoplasma pneumoniae (MIRM) là vi khuẩn không điển hình thường gây nhiễm trùng đường hô hấp, một số trường hợp có tổn thương ngoài phổi. Phát ban và viêm niêm mạc do Mycoplasma pneumoniae cần được chẩn đoán phân biệt với các bệnh lý tương tự như hội chứng Stevens – Johnson, hoại tử biểu bì nhiễm độc và hồng ban đa dạng. Trường hợp bệnh nhi báo cáo được chẩn đoán MIRM có biểu hiện tổn thương nhiều vị trí niêm mạc, tổn thương da đa dạng và có đủ bằng chứng viêm phổi không điển hình. Bệnh nhân đáp ứng với điều trị kháng sinh và corticosteroid. Việc chẩn đoán đúng bệnh, sử dụng thuốc thích hợp và chăm sóc toàn diện đã giúp bệnh nhân có kết quả điều trị tốt và không xuất hiện biến chứng.

1604 Angiostrongylus cantonesis gây sốt không rõ nguyên nhân ở trẻ em : báo cáo ca bệnh / Đỗ Thị Đài Trang, Nguyễn Sỹ Đức, Nguyễn Văn Lâm, Phạm Gia Hân // Nghiên cứu Y học - Trường ĐH Y Hà Nội .- 2021 .- Số 09(Tập 145) .- Tr. 287-293 .- 610

Nghiên cứu nhằm báo cáo một trường hợp ca bệnh Angiostrongylus cantonesis gây sốt không rõ nguyên nhân ở trẻ em. Sốt không rõ nguyên nhân (FUO) ở trẻ em thường gây ra bởi các bệnh truyền nhiễm. Angiostrongylus cantonesis là căn nguyên chính gây viêm màng não tăng bạch cầu ái toán ở người, hiếm khi gây ra FUO. Bệnh nhân được chẩn đoán viêm màng não tăng bạch cầu ái toan do Angiostrongylus cantonesis và đáp ứng tốt với điều trị. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ở trẻ nhỏ, triệu chứng nhiễm giun sán có thể không điển hình. Khi trẻ có biểu hiện FUO kèm bạch hầu ái toan trong máu ngoại vi tăng cao là dấu hiệu gợi ý nhiễm ký sinh trùng, đặc biệt chú ý nhiễm khuẩn thần kinh trung ương ngay cả khi không có triệu chứng lâm sàng.

1605 Báo cáo ca bệnh nhi viêm tụy cấp tái diễn có đột biến gen SPINK1 / Nguyễn Thị Việt Hà, Nguyễn Thị Ngọc Hồng, Chu Thị Phương Mai, Đặng Thúy Hà, Phạm Thị Thanh Nga // Nghiên cứu Y học - Trường ĐH Y Hà Nội .- 2021 .- Số 09(Tập 145) .- Tr. 294-299 .- 610

Nghiên cứu trình bày một trường hợp bệnh nhi viêm tụy cấp tái diễn có đột biến gen SPINK1. Viêm tụy cấp tái diễn và viêm tụy mạn là vấn đề còn chưa được hiểu biết nhiều ở trẻ em. Yếu tố nguy cơ chính gây viêm tụy cấp tái diễn và viêm tụy mạn ở người lớn là rượu và thuốc lá trong khi ở trẻ em các đột biến di truyền và các bất thường về giải phẫu của các ống tụy đóng một vai trò quan trọng. Xét nghiệm phân tích gen đóng một vai trò quan trọng trong tiếp cận chẩn đoán và điều trị viêm tụy cấp tái diễn, viêm tụy mạn. Xác định được nguyên nhân gây viêm tụy cấp tái diễn ở bệnh nhân này mở ra một đường hướng mới giúp các nhà lâm sàng xây dựng quy trình chẩn đoán và điều trị viêm tụy cấp tái diễn và viêm tụy mạn hiệu quả hơn trong tương lai.

1606 Sử dụng thuốc có cửa sổ điều trị hẹp trong ghép tạng / Hà Phan Hải An // Nghiên cứu Y học - Trường ĐH Y Hà Nội .- 2021 .- Số 09(Tập 145) .- Tr. 300-308 .- 610

Trình bày một số khái niệm cơ bản trong sử dụng thuốc có cửa sổ điều trị hẹp, một số đặc tính của thuốc ức chế calcineurin, các yêu cầu về tính tương đương sinh học để thuốc được đưa vào sử dụng lâm sàng an toàn hiệu quả, và một số điểm cần lưu ý khi sử dụng các thuốc thay thế cho thuốc gốc nhóm ức chế calcineurin trong ghép tạng. Sử dụng thuốc ức chế miễn dịch an toàn, hiệu quả để đạt lợi ích điều trị tối ưu cho người bệnh ghép tạng là một vấn đề luôn được quan tâm. Để cân bằng an toàn – hiệu quả, nhà lâm sàng cần hiểu rõ các đặc tính về dược động học, dược lực học của thuốc, và các công cụ giúp duy trì nồng độ mục tiêu như theo dõi nồng độ thuốc, đặc biệt là với các thuốc có cửa sổ điều trị hẹp như ức chế calcineurin. Bên cạnh đó, sự ra đời của nhiều loại thuốc cùng hoạt chất dưới áp lực kinh tế cũng là một thách thức cho các nhà lâm sàng.

1607 Vai trò của cộng hưởng từ trước phẫu thuật trong chẩn đoán rò hậu môn / Tống Anh Vũ, Đinh Trung Thành, Phạm Hồng Đức // Nghiên cứu Y học - Trường ĐH Y Hà Nội .- 2021 .- Số 09(Tập 145) .- Tr. 195-202 .- 610

Nghiên cứu nhằm đánh giá vai trò của cộng hưởng từ trước phẫu thuật trong chẩn đoán rò hậu môn. Rò hậu môn là những nhiễm khuẩn, tạo mủ khu trú bắt nguồn từ hốc hậu môn trực tràng. Áp xe và rò là hai giai đoạn của một quá trình bệnh lý, nếu áp xe không được xử lý hoặc xử lý không tốt thì sẽ dẫn tới rò. Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh như chụp đường rò cản quang, chụp cắt lớp vi tính, siêu âm nội soi có hạn chế là không cho thấy được mối liên quan của đường rò với phức hợp cơ thắt hậu môn cũng như mức độ lan rộng của tổn thương. Cộng hưởng từ có độ phân giải mô mềm rất tốt để hiển thị bản đồ giải phẫu quanh hậu môn, đường rò chính và thứ phát với áp xe liên quan đến phức hợp cơ thắt, giúp cho các bác sĩ phẫu thuật đưa ra quyết định trước mổ.

1608 Kết quả điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III bằng hóa xạ trị đồng thời với kỹ thuật xạ trị điều biến liều theo thể tích hình cung (VMAT) / Nguyễn Lan Phương, Đỗ Anh Tú, Phan Thanh Dương, Đinh Công Định, Vũ Xuân Huy, Nguyễn Công Hoàng, Đỗ Tất Cường, Bùi Vinh Quang // Nghiên cứu Y học - Trường ĐH Y Hà Nội .- 2021 .- Số 09(Tập 145) .- Tr. 203-211 .- 610

Nghiên cứu nhằm nhận xét ưu điểm của kỹ thuật xạ trị điều biến liều VMAT so với kỹ thuật xạ trị 3D trong lập kế hoạch điều trị và đánh giá kết quả và các biến chứng sớm, muộn khi áp dụng xã trị điều biến liều theo thể tích hình cung (VMAT) trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III. Xạ trị điều biến liều theo thể tích hình cung là kỹ thuật cao với hệ thống máy gia tốc hiện đại trang bị collimator đa lá (MLC) được thực hiện rộng rãi khắp các nước trên thế giới trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ phối hợp với hóa chất. Với kỹ thuật VMAT, các trường chiếu nhỏ được hình thành từ các hướng chùm tia. Các trọng số tương đối của liều lượng sẽ được làm tối ưu trên mỗi góc độ chùm tia. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ đáp ứng của u khi sử dụng kỹ thuật xạ trị Điều chế liều cao, trong khi đó biến chứng sớm và muộn do xạ trị lại thấp và ở mức độ nhẹ. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu tăng cường áp dụng kỹ thuật điều biến VMAT để nâng cao hơn nữa những chất lượng điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ.

1609 Kết quả xạ trị điều biến liều theo thể tích hình cung (VMAT) trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt tại Bệnh viện K Trung ương / Vũ Xuân Huy, Bùi Vinh Quang, Nguyễn Viết Nghĩa, Phạm Lâm Sơn, Đỗ Tất Cường, Nguyễn Công Hoàng, Phan Thanh Dương // Nghiên cứu Y học - Trường ĐH Y Hà Nội .- 2021 .- Số 09(Tập 145) .- Tr. 212-220 .- 610

Nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả điều trị Ung thư tuyến tiền liệt bằng kỹ thuật xạ trị VMAT tại Bệnh viện K Trung ương. Xạ trị là phương pháp điều trị ung thư tuyến tiền liệt quan trọng, các kỹ thuật áp dụng như: 3D-CRT, điều biến liều đã đem lại kết quả tốt. Tuy nhiên, các phương pháp điều trị còn gây ra nhiều tác dụng phụ đối với cơ quan nguy cấp như: bàng quang, trực tràng, cổ xương đùi. Với phương pháp xạ trị điều biến liều theo thể tích hình cung đã cải thiện tốt hiệu quả điều trị và hạn chế tối đa tác dụng phụ do xạ trị gây ra đối với các tổ chức nguy cấp trong tiểu khung. Kết quả nghiên cứu cho thấy, không gặp bệnh nhân nào có độc tính muộn trên da, và không bệnh nhân có biến chứng cổ xương đùi. Như vậy, VMAT giảm tác dụng phụ sớm và muộn so với 3D-CRT, rút ngắn thời gian xạ so với IMRT và giúp kéo dài thời gian sống thêm bệnh không tiến triển cho người bệnh.

1610 Tình trạng nội mô giác mạc trên mắt bị rách màng Descemet sau đẻ có can thiệp forceps / Phạm Ngọc Đông, Dương Mai Nga // Nghiên cứu Y học - Trường ĐH Y Hà Nội .- 2021 .- Số 09(Tập 145) .- Tr. 221-228 .- 610

Nghiên cứu nhằm mô tả tình trạng nội mô giác mạc trên mắt bị rách màng Descemet sau đẻ có can thiệp forceps. Nội mô giác mạc chỉ có một lớp tế bào hình lục giác, che phủ mặt sau của màng Descemet. Tế bào nội mô có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc điều hòa thẩm thấu nước vào giác mạc, giữ cho giác mạc có lượng nước nhất định và đảm bảo tính trong suốt của giác mạc. Bong màng Descemet và nội mô giác mạc có thể xảy ra thứ phát sau phẫu thuật thể thủy tinh, ghép giác mạc xuyên, một số phẫu thuật nội nhãn khác, bỏng hóa chất, chấn thương đụng dập nhãn cầu, chấn thương do forceps khi sinh. Những tổn thương tại mắt do can thiệp forceps gây ra thường gặp là phù giác mạc, rách màng Descemet, bệnh giác mạc bọng, sẹo nhu mô, cận loạn thị cao và có thể gây ra nhược thị. Bệnh nhân cần được theo dõi định kỳ để đánh giá thay đổi tế bào nội mô và ghép nội mô giác mạc khi có tăng độ dày giác mạc do tế bào nội mô mất bù.