CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

Khoa Y

  • Duyệt theo:
1411 Liên quan giữa tỉ số sFLT/PIGF và khả năng kéo dài thai kỳ trong bệnh lý Tiền sản giật / Lê Quang Thanh, Hoàng Thị Diễm Tuyết, Bùi Thị Hồng Như // .- 2017 .- Tr. 15 - 21 .- 610

Xác định trị số trung vị của tỉ số sFlt -1/P1GF ở nhóm thai kỳ bị tiền sản giật (TSG) có kết cục xấu mẹ và con và ở nhóm TSG không có kết cục xấu; Xác định mối liên quan giữa tỉ số sFlt -1/P1GF với khả năng kéo dài thai kỳ.

1412 Can thiệp sớm sai khớp cắn hạng II và lệch hàm do cắn kéo răng cối lớn một bên / Vũ Mỹ Linh // .- 2017 .- Số 7 .- Tr. 10 - 16 .- 610

Can thiệp sớm vẫn còn là vấn đề gây bàn cãi rất nhiều trong chỉnh hình răng mặt. Tuy nhiên, khi những lệch lạc về răng có khả năng gây ảnh hưởng đến sự phát triển xương hàm cần được can thiệp sớm để tránh các hậu quả nặng nề về thẩm mỹ và chức năng, cũng như giúp đơn giản hóa công việc điều trị chỉnh nha.Ca lâm sàng bên dưới là một trường hợp cắn kéo răng cối một bên có nguy cơ lệch mặt đã được điều trị kịp thời, sử dụng các khí cụ Bioprogressive.

1413 Khoảng leeway và ứng dụng trong chỉnh hình can thiệp sớm / Trần Thị Bích Vân // .- 2017 .- Số 7 .- Tr. 5 - 9 .- 610

Chen chúc răng là nguyên nhân thường gặp nhất khi đến khám để điều trị chỉnh hình răng mặt. Trong chỉnh hình can thiệp sớm tình trạng chen chúc, khoảng leeway là yếu tố có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Theo nhiều tác giả, việc giữ khoảng leeway giúp có thể giải quyết được đa số trường hợp có tình trạng chen chúc răng từ nhẹ đến trung bình (≤5mm) mà không cần phải nhổ răng, mài răng vĩnh viễn hoặc làm răng cửa nghiêng ra trước trong điều trị chỉnh hình toàn diện sau này. Để giữ khoảng leeway, có thể không dùng khí cụ như phương pháp mài răng sữa có hướng dẫn hoặc sử dụng những khí cụ rất đơn giản như bộ giữ khoảng, cung lưỡi, cung ngang khẩu cái, cung Nance… tùy trường hợp lâm sàng cụ thể.

1414 Điều trị sai khớp cắn hạng II không nhổ răng ở bệnh nhân đang tăng trưởng theo phương pháp Bioprogressive / Phạm Duy Tân // .- 2017 .- Số 7 .- Tr. 26 - 33 .- 610

Sai khớp cắn hạng II là dạng sai khớp cắn rất thường gặp ở bệnh nhân còn đang tăng trưởng, có thể hàm trên nhô ra trước, hoặc hàm dưới lùi ra sau, hoặc kết hợp cả hai. Nguyên nhân gây ra sai khớp cắn hạng II có thể liên quan đến yếu tố di truyền, ảnh hưởng của môi trường hoặc bệnh lý. Bài viết này sẽ trình bày một trường hợp sai khớp cắn hạng II do hàm dưới lùi, ở trẻ còn đang tăng trưởng, được điều trị theo phương pháp Bioprogressive của Ricketts.

1415 Điều trị hạng III xương sớm trên bệnh nhân mặt ngắn / Đỗ Quỳnh Như // .- 2017 .- Số 7 .- Tr. 35 - 40 .- 610

Tình trạng hạng III xương đi kèm cắn ngược vùng răng cửa thường là một kiểu hình sai khớp cắn thách thức cho các bác sĩ thực hành lâm sàng chỉnh nha. Ca lâm sàng mô tả những thay đổi của xương và răng trong điều trị sai khớp cắn hạng III, được điều trị bù trừ cho bệnh nhân 11 tuổi 3 tháng. Khí cụ cố định, bao gồm cung tiện ích biến thể, cung tiện ích hình chữ J và thun hạng III được sử dụng để điều trị sớm. Quá trình chỉnh hình toàn diện được tiếp tục sau khi răng vĩnh viễn mọc lên hoàn tất. Kết quả điều trị đạt được mục tiêu về thẩm mỹ và chức năng, với độ cắn phủ và cắn chìa phù hợp, và duy trì sự vững ổn 3 năm sau khi kết thúc điều trị. Phân tích dữ liệu và chẩn đoán toàn diện theo quan điểm sinh học tiến triển đã giúp đưa ra chọn lựa điều trị đúng đắn ngay cả trên đối tượng bệnh nhân đang tăng trưởng đem đến kết quả hài lòng và sự ổn định theo thời gian.

1416 Hiệu quả gây tê tủy sống bằng Bupivacaine Sufentanil và Morphine trong mổ cắt tử cung toàn phần đường bụng tại Bệnh viện phụ sản thành phố Cần Thơ / Trần Văn Đăng, Bùi Thị Minh Thư // Đại học Y dược Cần Thơ (Điện tử) .- 2019 .- Số 21 .- Tr. 214-218 .- 610

So sánh hiệu quả gây tê tủy sống bằng Bupivacain đẳng trọng với tỷ trọng cao khi kết hợp Fentanyl trong phẫu thuật lấy thai trên 100 sản phụ. Kết quả cho thấy tỷ lệ gây tê tủy sống thành công là 100 phần trăm. Không có bệnh nhân nào phải chuyển qua gây mê, không có bệnh nhân phải dùng thêm thuốc giảm đau trong phẫu thuật. Không có sự khác biệt vè hiệu quả gây tê và tác dụng không mong muốn của 9 mg bupivacain đẳng trọng so với bupivacain tỷ trọng cao khi kết hợp với 20 mcg fentanyl trong gây tê tủy sống cho phẫu thuật lấy thai.

1417 Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và các yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân vảy nến tại Bệnh viện da liễu Cân Thơ năm 2017-2019 / Nguyễn Thị Lệ Quyên, Huỳn Văn Bá, Nguyễn Thị Thùy Trang // .- 2019 .- Số 21 .- Tr. 1 - 6 .- 610

Mô tả đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến điều trị tại Bệnh viện Da Liễu Cần Thơ năm 2017-2019 và nhận xét các yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân vảy nến điều trị tại Bệnh viện Da Liễu Cần Thơ năm 2017-2019.

1418 Đánh giá kết quả phẫu thuật tiệt căn xương chum tối thiểu đường ống tai trên bệnh nhân viêm tai xướng chum mạn tính tại Bệnh viện tai mũi họng Cần Thơ / Nguyễn Vũ Lâm, Nguyễn Triều Việt, Dương Hữu Nghị // .- 2019 .- Số 21 .- Tr. 1- 5 .- 610

Mô tả đặc điểm lâm sàng bệnh nhân viêm tai xương chũm mạn tính có chỉ định phẫu thuật và đánh giá kết quả phẫu thuật tiệt căn xương chũm tối thiểu đường ống tai.

1419 Gây tê ngoài màng cứng liên tục trên bệnh nhân ung thư vú có bệnh Copd / Phan Thị Hồ Hải, Lê Quốc Hải // Y học thành phố Hồ Chí Minh (Điện tử) .- 2005 .- Số 1 .- Tr. 111 - 113 .- 610

Đối với các bệnh nhân có bệnh COPD được mổ ung thư vú gây mê nội khí quản (NKQ) và gây tê ngoài màng cứng (GTNMC) là phương pháp vô cảm kết hợp thường được sử dụng vì hạn chế được nhiều biến chứng so với gây mê NKQ đơn thuần. Tuy nhiên phương pháp GTNMC đơn thuần (không có đặt NKQ hoặc mê toàn thân) còn ít được quan tâm ở các bệnh nhân kể trên. Báo cáo trường hợp: Chúng tôi tiến hành GTNMC liên tục cho bệnh nhân ung thư vú có bệnh COPD kèm theo được phẫu thuật theo phương pháp Patey bằng Marcain 0.5% phối hợp Fentanyl 2 mcg/ml trong mổ và Marcain 0.25% phối hợp Fentanyl 2 mcg/ml để giảm đau sau mổ. Bệnh nhân này đã được tiến hành phẫu thuật trong 3 giờ. Không có bất cứ biến chứng gì về hô hấp và tim mạch xảy ra trong và sau mổ. Bệnh nhân ra viện sau mổ 3 ngày. Nhận xét và kết luận: GTNMC liên tục là phương pháp vô cảm được lựa trọn cho các phẫu thuật ở các bệnh nhân mổ ung thư vú mà việc đặt NKQ và thông khí áp lực dương nên tránh.