Lào Cai là vùng đất giàu tiềm năng và có lợi thế để phát triển du lịch, tuy nhiên, các hoạt động du lịch ở đây vẫn mang tính chất đơn lẻ, manh mún, thiếu sự liên kết trong phạm vi nội vùng và liên vùng. Và chưa có sự liên kết vùng chặt chẽ trong hoạt động du lịch. Do vậy, trong thời gian tới, để phát triển du lịch gắn với liên kết vùng là chìa khóa để các địa phương nói chung và Lào Cai nói riêng phát triển và triển khai đa dạng những hoạt động và sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn, từ đó đưa du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, tạo động lực thúc đẩy các ngành và lĩnh vực khác phát triển. Bài viết sau đây sẽ làm rõ hơn về vấn đề này.
Nghiên cứu này đánh giá tác động của chất lượng môi trường thể chế quốc gia đến sự phát triển của khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại các nền kinh tế mới nổi, với vai trò điều tiết của sự phát triển tài chính. Sử dụng dữ liệu mảng cân bằng của 14 nền kinh tế mới nổi giai đoạn 2002-2021, nghiên cứu phân tích tác động riêng lẻ và tương tác của biến số tổng hợp chất lượng môi trường thể chế cũng như các thành phần của nó - gồm kiểm soát tham nhũng, hiệu quả chính phủ, ổn định chính trị, thượng tôn pháp luật và chất lượng quy định - đến giá trị dòng FDI tích lũy mà một quốc gia tiếp nhận thông qua sự phát triển tài chính. Kết quả chỉ ra, mặc dù việc cải thiện chất lượng thể chế và phát triển tài chính có tác động tích cực đến thu hút FDI, sự tương tác giữa hai yếu tố này có thể tạo ra tác động ngược chiều, làm tăng độ phức tạp trong quy định và giảm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư. Từ đó, nghiên cứu đưa ra khuyến nghị chính sách, nhấn mạnh sự cần thiết của việc cân bằng giữa cải cách thể chế và phát triển tài chính nhằm tối ưu hóa dòng vốn FDI và thúc đẩy tăng trưởng bền vững.
So sánh thị lực và đánh giá chủ quan về mặt thị giác của trẻ em cận thị sử dụng tròng kính vi thấu kính phi cầu bậc cao (HAL) với tròng kính đơn tiêu cự (ĐTC). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng phân bố ngẫu nhiên, tiến cứu, mù đôi thực hiện trên 119 trẻ em cận thị có độ cầu tương đương từ -0,75D đến -4,75D, độ loạn không quá -1,50D, bất đồng khúc xạ không quá 1,00D, với độ tuổi từ 7 đến 13 tại Khoa Mắt, Bệnh viện An Sinh. Kết quả: Thị lực nhìn xa và nhìn gần của từng mắt tại thời điểm 6 tháng ở nhóm sử dụng tròng HAL và tròng ĐTC lần lượt là 0,03±0,03, 0,04±0,03 LogMAR (p=0,235) và 4,0±0,0, 4,0±0,2 hàng N (p=0,082). Tại thời điểm 3 tháng, tròng HAL được đánh giá là khó thích nghi hơn so với tròng ĐTC (p=0,023). Mức hài lòng về chất lượng thị giác của trẻ sử dụng tròng HAL khi học tập không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so với tròng ĐTC (p>0,05) nhưng trong các hoạt động vận động lại thấp hơn (p<0,05). Kết luận: Khả năng thích nghi của trẻ với tròng kính HAL cao. Thị lực nhìn xa, nhìn gần và mức hài lòng của trẻ sử dụng tròng kính HAL khi học tập tương đương với tròng kính ĐTC. Có ít hơn 10% trẻ không hài lòng với chất lượng thị giác khi sử dụng tròng HAL trong các hoạt động vận động.
Đánh giá kết quả thí điểm áp dụng mô hình câu lạc bộ sức khỏe cộng đồng cho người bệnh tăng huyết áp dự phòng đột quỵ. Phương pháp: Nghiên cứu can thiệp có đối chứng, mỗi nhóm có 30 người bệnh tăng huyết áp 50- 75 tuổi. Thành lập câu lạc bộ sức khỏe cộng đồng dành cho nhóm can thiệp. Kết quả: Sau can thiệp chỉ còn khoảng 1/4-1/3 đối tượng ở nhóm can thiệp chưa tuân thủ các nội dung về dùng thuốc. Con số này ở nhóm đối chứng là cao hơn nhiều, trong đó 3/4 số nội dung có tỷ lệ không tuân thủ về dùng thuốc ở mức 100%. Chưa nhận thấy được sự thay đổi đáng kể về việc tuân thủ chế độ ăn ở 02 nhóm nghiên cứu. Tỷ lệ người kiểm soát được huyết áp ở nhóm can thiệp là cao hơn và có xu hướng tăng so với nhóm đối chứng. Cụ thể, nhóm can thiệp từ 70 tăng lên 73,3% sau 3 tháng can thiệp và sau 9 tháng là 86,7%. Các số liệu này ở nhóm đối chứng lần lượt là: 80, 60 và 53,3%. Kết luận: Câu lạc bộ sức khỏe cộng đồng có vai trò quan trọng trong việc nâng cao kiến thức và tuân thủ điều trị ở người bệnh tăng huyết áp, góp phần dự phòng nguy cơ đột qụy.
Bê tông nhựa rỗng (BTNR) đã được sử dụng phổ biến để gia tăng khả năng thoát nước của mặt đường. Sự thoát nước này phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như lưu lượng mưa, độ dốc thiết kế và độ rỗng của vật liệu. Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu đánh giá khả năng thoát nước BTNR có xét đến ảnh hưởng của độ dốc và độ rỗng khác nhau. Thí nghiệm mô phỏng mưa được thực hiện cho mẫu BTNR có độ rỗng là 10% và 15% trong điều kiện lưu lượng mưa khác nhau. Kết quả thí nghiệm cho thấy khả năng thoát nước qua thân của mẫu BTNR tỷ lệ nghịch với độ dốc và tỷ lệ thuận với độ rỗng. Thêm vào đó, nghiên cứu này còn chỉ ra rằng ở cường độ mưa lớn, mẫu BTNR. Nghiên cứu còn cho thấy rằng, tại điều kiện cường độ mưa lớn, các mẫu BTNR có độ rỗng và độ dốc khác nhau cho kết quả tương tự như nhau về khả năng thoát nước. Kết quả trong nghiên cứu này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về ứng xử thoát nước của BTNR. Trong tương lai, các thí nghiệm hiện trường cần được triển khai thực hiện để giúp các kỹ sư và các nhà khoa học hiểu rõ hơn về ứng xử cơ học và thoát nước của mẫu BTNR. Từ đó, vật liệu BTNR có thể được ứng dụng rộng rãi và hiệu quả góp phần chống ngập trong đô thị
Hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án và xác định việc chưa có điều kiện thi hành án là những nội dung quan trọng trong quá trình thực hiện các thủ tục thi hành án dân sự, là căn cứ để cơ quan thi hành án dân sự tạm dừng hoặc dừng hoàn toàn việc tổ chức thi hành án. Nhằm góp phần đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp các đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự, Dự thảo 2 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) đã có một số sửa đổi, bổ sung quy định về hoãn, tạm đình chỉ, đình chi thi hành án và xác định việc chưa có điều kiện thi hành án. Bài viết phân tích, bình luận về các nội dung được sửa đổi, bổ sung trong Dự thảo, đồng thời tiếp tục kiến nghị những nội dung cần được nghiên cứu, hoàn thiện.
Độ sâu sau nước nhảy là một yếu tố quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến độ sâu và chiều dài của bể tiêu năng. Việc tính toán chính xác độ sâu này là rất cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn cao. Do đó, nghiên cứu này đã thiết lập và đánh giá khả năng dự báo độ sâu sau nước nhảy của sáu mô hình học máy (ML), gồm có: Rừng cây ngẫu nhiên (Random Forest - RT), Tăng cường thích ứng (Adaptive Boosting – Ada), Tăng cường tốc độ (Cat Boosting – CB), Tăng cường độ dốc (Gradient Boosting - GB), Cây bổ sung (Extra Trees - ET) và Máy Vector hỗ trợ (Support Vector Machine – SVM). Trong nghiên cứu này, định lý π-Buckingham đã được sử dụng để tìm năm tham số không thứ nguyên làm đầu vào và đầu ra của mô hình. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các mô hình ET, GB, SVR, Ada có xét đến ảnh hưởng của độ nhám và chiều rộng lòng dẫn, tính nhớt của chất lỏng, có sai số nhỏ hơn so với công thức Belanger (bỏ qua lực ma sát) và các công thức kinh nghiệm khác. Khi kiểm định, các mô hình này đều có hệ số Nash đạt trên 0,996. Mô hình ET cho kết quả tốt nhất, sau đó là GB, SVR, Ada, RF, CB, theo thứ tự giảm dần. Như vậy, có thể áp dụng mô hình ET để tính toán độ sâu sau nước nhảy trong kênh lăng trụ đáy bằng, mặt cắt chữ nhật
Trước nhu cầu ngày càng tăng về các phương tiện giao thông hiệu suất cao và tiết kiệm năng lượng, việc nâng cao khả năng điều khiển mô-men xoắn của động cơ kéo trở thành một hướng nghiên cứu quan trọng. Trong đó, động cơ đồng bộ nam châm vĩnh cửu từ thông dọc trục (AFPMSM) với ưu điểm cấu trúc phẳng gọn và mật độ mô-men cao đang được ứng dụng rộng rãi trong các hệ thống truyền động điện hiện đại. Bài báo này đề xuất một phương pháp nhằm tăng cường mô-men xoắn của AFPMSM trong xe điện thông qua sự kết hợp giữa điều khiển dự đoán (MPC) và mạng học sâu (DNN) để tối ưu hàm chi phí. MPC điều chỉnh các hệ số trọng số nhằm giảm thiểu hàm chi phí (J) trong khi vẫn tuân thủ các ràng buộc về điện áp và dòng điện. Mạng DNN gồm năm tầng: một tầng đầu vào với năm nút tương ứng với các tham số như mô-men yêu cầu, tốc độ động cơ, dòng điện, mô-men động cơ và mô-men tải; ba tầng ẩn với 224 nút sử dụng hàm kích hoạt ReLU; và một tầng đầu ra với ba nút cùng hàm kích hoạt Sigmoid. Kiến trúc này cho phép điều chỉnh trọng số theo thời gian thực đối với mô-men xoắn, dòng điện và điện áp điều khiển, từ đó nâng cao độ chính xác quan sát, giảm gợn mô-men và tăng hiệu suất hệ thống. Tính thích nghi của bộ điều khiển MPC-DNN đảm bảo độ chính xác cao ngay cả trong điều kiện có nhiễu hoặc thay đổi. Thuật toán điều khiển lai được triển khai bằng Python cho thấy kết quả đầy hứa hẹn, mở ra hướng đi mới cho các hệ thống điều khiển thông minh và truyền động điện hiện đại.
Ngày 14/11/2008, Quốc hội đã thông qua Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12, được sửa đổi, bổ sung năm 2014 và năm 2022 bởi Luật số 64/2014/QH13, Luật số 03/2022/QH15 (Luật THADS). Sau gần 15 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao. Bên cạnh kết quả đạt được, Luật THADS đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, còn thiếu một số quy định hoặc quy định không còn phù hợp với thực tiễn, chưa đồng bộ, tương thích với một số luật có liên quan. Bài viết phân tích về các chính sách, cơ sở của việc xây dựng chính sách và trao đổi về những định hướng căn bản sửa đổi Luật Thi hành án dân sự tiếp cận từ Dự thảo 2 Luật THADS sửa đổi (Dự thảo 2)4.
Khi thiết kế mới, nâng cấp một hệ thống điều khiển tín hiệu trong ga, đưa nó vào hoạt động điều khiển chạy tàu, việc xác minh tính đúng, tính an toàn của hệ thống liên khóa máy tính, hệ thống thành phần cốt lõi của hệ thống điều khiển tín hiệu trong ga là vấn đề cấp thiết, đặc biệt khi triển khai chúng ở các loại hình đường sắt ở Việt Nam. Phân tích các hoạt động chạy tàu trong ga sẽ đặt ra những quy trình công nghệ với sự tham gia của các yếu tố tạo nên những quy trình an toàn. Phân tích hoạt động của hệ thống điều khiển tín hiệu trong ga sẽ nhóm ra được các yếu tố, thiết bị liên quan tới tính đúng và tính an toàn của các tác nghiệp chạy tàu trong ga. Xây dựng sơ đồ thuật toán thực hiện tác nghiệp điều khiển chạy tàu của ga sẽ là cơ sở cho việc thiết kế, xây dựng hệ thống liên khóa máy tính. Đưa các yếu tố, thiết bị theo các nhóm đã được hình thành khi phân tích vào thuật toán sẽ đảm bảo sự tham gia cần thiết, đủ và hợp lý của chúng cho tác nghiệp chạy tàu hoạt động đúng và an toàn. Việc kiểm tra, xác minh tính đúng, tính an toàn sẽ được thực hiện, thực hiện tự động trên cơ sở các thuật toán này.