CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

Khoa Y

  • Duyệt theo:
21 Kết quả phẫu thuật đứt kín hệ thống duỗi gối ở bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối / Huỳnh Minh Thành, Đỗ Phước Hùng // Y học thành phố Hồ Chí Minh (Điện tử) .- 2025 .- Số 2 .- Tr. 84-92 .- 610

Đứt kín hệ thống gân duỗi gối trên bệnh nhân bệnh thận giai đoạn cuối là một thách thức phẫu thuật do chất lượng gân kém, co rút gân và nhiều bệnh lí nền. Kết quả điều trị không chỉ phụ thuộc vào phục hồi tổn thương giải phẫu mà còn giảm thiểu biến chứng có thể xảy ra. Phục hồi vị trí xương bánh chè về bình thường (nhóm gân tứ đầu đùi 94,1%, nhóm gân bánh chè 85,7%. Phục hồi duỗi gối ở tất cả các trường hợp. Sức cơ duỗi gối đạt từ bậc 4 (33,3%) đến bậc 5 (66,7%). Chức năng theo Lysholm từ khá, tốt đến rất tốt. Tỉ lệ mất duỗi 37,5% với biên độ mất duỗi trung bình 4,2 ± 4,50, tỉ lệ mất gấp gối 62,5% và biên độ mất gấp trung bình 17,4 ± 20,90. Không có biến chứng nhiễm trùng, đứt lại. Thời gian theo dõi trung bình 18,6 ± 15,7 tháng. Phẫu thuật phục hồi gân hệ thống duỗi gối ở các bệnh nhân bệnh thận giai đoạn cuối an toàn và hiệu quả với chương trình phục hồi chức năng thích hợp.

22 Khảo sát tỉ lệ thiếu máu mạn ở bệnh nhân cao tuổi mắc hội chứng vành cấp / Dương Toả Ngọc Trâm // Y học thành phố Hồ Chí Minh (Điện tử) .- 2025 .- Tr. 134-140 .- Tr. 134-140 .- 610

Thiếu máu mạn là bệnh đồng mắc thường gặp ở bệnh nhân cao tuổi mắc hội chứng vành cấp. Thiếu máu có liên quan đến tiên lượng xấu hơn của nhóm bệnh nhân này. Nghiên cứu thu thập được 318 trường hợp. Tuổi trung bình là 72, 1/3 trường hợp bệnh nhân ≥ 75 tuổi; tỉ lệ nam gấp hai lần nữ. Tỉ lệ thiếu máu mạn là 44,3%. Thiếu máu mức độ nhẹ chiếm đa số 57,5%, mức độ trung bình 39% và mức độ nặng là 3,5%. Nồng độ hemoglobin trung bình ở nhóm thiếu máu là 10,9 ± 1,2 mg/dL. Nhóm thiếu máu có tỉ lệ hút thuốc lá là 24,8%, tăng huyết áp là 80,9%; đái tháo đường 48,9%; béo phì 30,5%, bệnh thận mạn 29,8% và suy yếu (CFS) là 74,2%. Tỉ lệ các thể bệnh trong hội chứng vành cấp tương đương nhau. Phân độ suy tim Killip ≥ II là 21,3%, điểm Grace ≥ 140 chiếm 41,8% và tỉ lệ can thiệp mạch vành qua da là 88,7%. Tử vong nội viện ở nhóm thiếu máu là 2,8%. Tỉ lệ thiếu máu mạn ở bệnh nhân cao tuổi mắc hội chứng vành cấp là khá cao chiếm 44,3%; thiếu máu mức độ nhẹ chiếm đa số 57,5%.

23 Đánh giá kết quả học tập của điều dưỡng nhi sau khóa tập huấn về nhận định lâm sàng / Hà Mạnh Tuấn // Y học thành phố Hồ Chí Minh (Điện tử) .- 2025 .- Số 3 .- Tr. 140-145 .- 610

Nhận định lâm sàng của điều dưỡng là kỹ năng thiết yếu của điều dưỡng. Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá kết quả học tập của điều dưỡng nhi sau khóa tập huấn về nhận định lâm sàng và xác định các yếu tố liên quan đến cải thiện kết quả học tập. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang. Đánh giá kết quả học tập (lý thuyết và thực hành) trước và sau khóa học của điều dưỡng. Xác định các yếu tố liên quan đến cải thiện kết quả học tập bằng phân tích hồi quy đa biến. Kết quả: Có 225 điều dưỡng tham gia vào nghiên cứu. Điểm kiến thức trước và sau huấn luyện lần lượt là 4,2 ± 1,2 và 8 ± 0,9 (p <0,001); điểm thực hành trước và sau huấn luyện lần lượt là 4,6 ± 0,9 và 8,3 ± 1,1 (p <0,001); điểm kết quả học tập trước và sau huấn luyện là 3,55 ± 0,59 và 6,73 ± 0,60 (p <0,001). Các yếu tố trình độ, kinh nghiệm làm việc > 5 năm của điều dưỡng có liên quan đến kết quả học tập (p <0,05). Kết luận: Khóa huấn luyện có thay đổi kết quả học tập của điều dưỡng. Để nâng cao năng lực chuyên môn của điều dưỡng cần phải đào tạo liên tục, nâng cao trình độ, cải thiện môi trường làm việc và tăng cường trải nghiệm thực hành cho điều dưỡng.

24 Đánh giá tình trạng loạn năng của hàm dưới sau phẫu thuật cắt đoạn xương hàm dưới đặt nẹp tái tạo / Đoàn Cao Quốc Duy // Y học thành phố Hồ Chí Minh (Điện tử) .- 2025 .- Số 3 .- Tr. 131-139 .- 610

Nẹp tái tạo là phương tiện phổ biến để tái tạo khuyết hổng xương hàm dưới (XHD), tuy nhiên, tình trạng chức năng của hàm dưới trên những bệnh nhân (BN) được đặt nẹp giữ khoảng vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Mục tiêu: Đánh giá tình trạng chức năng hàm dưới sau phẫu thuật (PT) cắt đoạn XHD đặt nẹp tái tạo. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu báo cáo loạt ca lâm sàng tiến cứu trên 19 bệnh nhân (BN) sau PT cắt đoạn XHD đặt nẹp tái tạo tại khoa Phẫu thuật Hàm Mặt bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung Ương Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 01/10/2022 đến ngày 31/08/2023 Kết quả: Ở thời điểm tái khám, 84,2% BN có dấu hiệu loạn năng ở mức độ nhẹ - trung bình theo chỉ số loạn năng lâm sàng Helkimo. Biểu hiện thường gặp là giảm biên độ vận động hàm kèm đau ở khớp khi vận động. Trên hình ảnh cắt lớp vi tính, lồi cầu (LC) bên PT có xu hướng di chuyển ra trước - xuống dưới. Kết luận: Tái tạo khuyết hổng XHD bằng nẹp có liên quan đến tình trạng loạn năng hàm dưới ở mức độ nhẹ đến trung bình.

25 Các phương pháp kiểm soát chảy máu trong sốc mất máu do chấn thương khung chậu / Trần Bá Lân // Y học thành phố Hồ Chí Minh (Điện tử) .- 2025 .- Số 4 .- Tr. 01-10 .- 610

Sốc mất máu do chảy máu vào khoang sau phúc mạc ở bệnh nhân (BN) chấn thương khung chậu là một tình trạng cấp cứu nghiêm trọng và khó nhận biết, với tỷ lệ tử vong cao nếu không được kiểm soát kịp thời. Chảy máu do gãy xương chậu có nguồn gốc chủ yếu từ tĩnh mạch (>90%) và một phần từ động mạch (<10%) đòi hỏi chiến lược xử trí phù hợp dựa trên tình trạng huyết động của BN. Các biện pháp kiểm soát chảy máu bao gồm cố định khung chậu tạm thời, chèn gạc ngoài phúc mạc, cố định ngoài, đặt bóng chèn trong lòng động mạch chủ, thuyên tắc mạch và phẫu thuật cầm máu. Chụp cắt lớp vi tính giúp đánh giá mức độ tổn thương và chỉ định can thiệp phù hợp. Hồi sức tích cực, truyền máu cân bằng và lựa chọn biện pháp cầm máu sớm là yếu tố then chốt giúp cải thiện tiên lượng.

26 Xây dựng mô hình chuột nhắt chủng Swiss bị loét dạ dày tá tràng bằng phương pháp WIRS / Trần Hữu Dũng, Đặng Công Thuận, Trần Đức Nguyên Phúc // Y dược học (Điện tử) .- 2025 .- Số 3 .- Tr. 112-119 .- 610

Xây dựng một mô hình chuẩn động vật bị viêm loét dạ dày, tá tràng với mức độ viêm loét được xác định cụ thể như trên người để sử dụng cho các thử nghiệm nghiên cứu thuốc điều trị bệnh đang rất cần thiết. Vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện nhằm xây dựng mô hình chuột nhắt chủng Swiss bị loét dạ dày tá tràng bằng phương pháp gây stress và đánh giá sự phù hợp của mô hình đã xây dựng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Gây loét dạ dày tá tràng cho chuột Swiss bằng phương pháp WIRS (Water Immersion Restraint Stress) trong 3, 5, 7 và 9 ngày. Lựa chọn thời gian gây loét tối ưu nhất dựa vào hình ảnh đại thể, vi thể và nồng độ các biomaker sinh học liên quan tình trạng viêm nhiễm bao gồm Glutathione và Malondialdehyde. Mô hình đã xây dựng sẽ được đánh giá sự phù hợp bằng cách gây loét với điều kiện đã lựa chọn để xác định tính lặp lại, sau đó quan sát các tổn thương viêm loét với trạng thái không điều trị trong 7, 14, 21 và 28 ngày để xác định sự tự lành bệnh theo thời gian. Kết quả: Sau 9 ngày, tình trạng viêm loét trên dạ dày tá tràng chuột đã đáp ứng tất cả các tiêu chí đánh giá. Nếu không được điều trị, chuột cần đến 28 ngày thì dạ dày tá tràng mới trở về trạng thái sinh lý bình thường. Kết luận: Mô hình có triển vọng để ứng dụng vào các nghiên cứu tác dụng điều trị viêm loét dạ dày tá tràng của thuốc trên động vật thí nghiệm.

27 Theo dõi đặc điểm vết mổ phẫu thuật chỉnh hình chi dưới bằng công cụ đánh giá vết mổ SWAT tại bệnh viện Quân Y 175 / Trịnh Thị Thơm // Y học thành phố Hồ Chí Minh (Điện tử) .- 2025 .- Số 2 .- Tr. 74-83 .- 610

Đánh giá và theo dõi vết mổ đóng vai trò thiết yếu trong chăm sóc hậu phẫu. Tuy nhiên, việc sử dụng các công cụ chuẩn hóa để hỗ trợ đánh giá trong thực hành vẫn còn hạn chế. Mô tả đặc điểm vết mổ sau phẫu thuật chỉnh hình chi dưới bằng công cụ SWAT, xác định điểm số SWAT, tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) và các yếu tố liên quan. Đặc điểm vết mổ phù hợp với quá trình lành thương. Điểm SWAT giảm dần qua 3 lần đánh giá. Tỷ lệ NKVM là 3,1%. Các yếu tố liên quan gồm: phẫu thuật cấp cứu, vị trí phẫu thuật và các đặc điểm vết mổ như da tấy đỏ, mép vết mổ, số lượng và tính chất dịch.

28 Nghiên cứu góc QRS - T trên điện tâm đồ bề mặt ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên / Nguyễn Anh Vũ // Y dược học (Điện tử) .- 2025 .- Số 3 .- Tr. 14-24 .- 610

Nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên là một thể của hội chứng động mạch vành cấp, là một yếu tố làm tăng nguy cơ tử vong và tỉ lệ xuất hiện các biến cố tim mạch, mặc dù đã có những tiến bộ đáng kể trong phương pháp điều trị. Phân tầng nguy cơ sớm ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên đóng vai trò rất quan trọng trong việc tối ưu hóa điều trị. Góc QRS - T ở mặt phẳng trán của điện tâm đồ bề mặt là một trong những dấu hiệu hiện đã và đang được chứng minh có vai trò trong đánh giá và tiên lượng mức độ nặng của bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên. Mục tiêu: 1: Khảo sát góc QRS - T trên điện tâm đồ bề mặt ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên. 2: Tìm hiểu mối liên quan và tương quan giữa góc QRS - T trên điện tâm đồ bề mặt với nồng độ hs - Troponin T huyết thanh, phân suất tống máu thất trái, phân độ Killip và tình trạng rối loạn nhịp tim ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 109 bệnh nhân được chẩn đoán Nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên tại Khoa Cấp cứu Tim mạch - Can thiệp, Bệnh viện Trung ương Huế từ ngày 06/02/2023 đến ngày 15/01/2024. Kết quả: Độ tuổi trung bình của quần thể nghiên cứu là 65,76 ± 11,5 tuổi, tỉ lệ bệnh nhân ≥ 65 tuổi chiếm 56,9%, tỉ lệ nam giới chiếm 67,0%. Điểm cắt tối ưu của góc f(QRS - T) trong nghiên cứu của chúng tôi là 84,500, có giá trị tiên lượng bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên có độ nhạy là 80,0% và độ đặc hiệu là 63,5% với diện tích dưới đường cong là 0,78. Giá trị trung bình của góc f(QRS - T) cao hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm có phân độ Killip II - IV, phân tầng nguy cơ TIMI - STEMI trung bình - cao, suy tim EF giảm và tình trạng rối loạn nhịp so với các phân nhóm tương đương. Chúng tôi ghi nhận được có mối tương quan nghịch giữa góc f(QRS - T) với phân suất tống máu thất trái (LVEF) với r = - 0,36 và p < 0,001. Có mối liên quan và tương quan giữa góc f(QRS - T) với phân suất tống máu thất trái, phân độ Killip, tình trạng rối loạn nhịp. Kết luận: Điểm cắt tối ưu của góc f(QRS - T) là 84,500 có giá trị xác định ranh giới giữa giá trị của góc f(QRS - T) lên mức độ nặng của bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên. Có mối liên quan và tương quan giữa giá trị của góc f(QRS - T) với phân suất tống máu thất trái, tình trạng rối loạn nhịp, phân độ Killip, phân tầng nguy cơ TIMI dành cho bệnh nhân STEMI.

29 Đánh giá hiệu quả các phương thức dùng thuốc qua khoang ngoài màng cứng trong giảm đau trong chuyển dạ sinh thường / Lê Đình Trà Mân // Y dược học (Điện tử) .- 2025 .- Số 3 .- Tr. 49-55 .- 610

Sinh con là một trải nghiệm vô cùng vui vẻ, tuy nhiên quá trình chuyển dạ là một trong những trải nghiệm nhiều đau đớn nhất mà phụ nữ trải qua trong đời. Giảm đau ngoài màng cứng với nhiều phương thức duy trì liều ropivacain khác nhau nhằm nỗ lực đạt được những tiêu chuẩn của giảm đau lý tưởng, đem lại sự thoải mái và hài lòng cho sản phụ. Mục tiêu: Đánh giá tác dụng giảm đau chuyển dạ của gây tê ngoài màng cứng bằng ropivacain giữa ba phương pháp tiêm ngắt quãng, do bệnh nhân tự kiểm soát hoặc truyền liên tục. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả mô tả tiến cứu có so sánh trên 150 sản phụ được gây tê ngoài màng cứng giảm đau trong chuyển dạ sinh thường tại Bệnh viện Từ Dũ từ tháng 07/2023 đến tháng 07/2024. Nghiên cứu phân tích ba nhóm, mỗi nhóm 50 sản phụ: nhóm ngắt quãng thực hiện tiêm ngắt quãng 7 ml thuốc tê ropivacain 0,1% + fentanyl 2 mcg/ml mỗi 45 phút; nhóm kiểm soát duy trì liều thuốc tê thấp 5 ml/giờ và sử dụng PCA khi sản phụ đau; nhóm liên tục duy trì liều thuốc tê 10 ml/giờ. Ở cả ba nhóm, sản phụ khi đau được tiêm liều giải cứu là 5ml thuốc tê. Kết quả: Phương pháp tiêm ngắt quãng từng liều thuốc tê trong khoang ngoài màng cứng đem lại hiệu quả giảm đau tốt nhất. Tỷ lệ sản phụ có điểm VAS trung bình sau gây tê và VAS ≥ 4 sau tê 1 giờ của nhóm tiêm ngắt quãng đều thấp hơn nhóm bệnh nhân tự kiểm soát và truyền liên tục (92%, 28% và 66%; p < 0,05). Tỷ lệ cần liều giải cứu của nhóm tiêm ngắt quãng và nhóm bệnh nhân tự kiểm soát thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm truyền liên tục (8% và 4% so với 38%). Tổng liều thuốc tê sử dụng của nhóm tiêm ngắt quãng là 46,5 mg, nhóm bệnh nhân tự kiểm soát 42,7 mg và cao nhất là nhóm truyền liên tục với 52,3 mg. 96% sản phụ rất hài lòng và 4% hài lòng vừa với phương pháp tiêm ngắt quãng. Các tác dụng không mong muốn không có sự khác biệt ở cả ba nhóm nghiên cứu. Kết luận: Phương pháp tiêm ngắt quãng từng liều mang lại hiệu quả tốt nhất để giảm đau trong chuyển dạ và nên được ứng dụng trên lâm sàng.

30 Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng chọn lựa thuốc sinh học của bác sĩ và bệnh nhân trong điều trị bệnh vảy nến mức độ trung bình nặng / Nguyễn Thị Hồng Chuyên, Nguyễn Thị Mai Xuân, Văn Thế Trung // .- 2025 .- Số 3 .- Tr. 17-23 .- 610

Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng chọn lựa thuốc sinh học của bác sĩ và bệnh nhân trong điều trị bệnh vảy nến mức độ trung bình - nặng. Thuộc tính có tầm quan trọng tương đối (Relative importance – RI) cao nhất ở nhóm bệnh nhân là chi phí (RI: 29,3%) và ở nhóm bác sĩ là hiệu quả dài hạn (RI: 39,3%). Bệnh nhân quan tâm tần suất điều trị (RI: 19,5%) và tỉ lệ nhiễm trùng nghiêm trọng (RI: 14,6%) hơn so với bác sĩ. Thuộc tính ít ảnh hưởng đến lựa chọn của bệnh nhân và bác sĩ là hiệu quả duy trì sau ngưng thuốc và hiệu quả ngắn hạn. Chi phí điều trị là thuộc tính quan trọng nhất đối với bệnh nhân vảy nến ở Việt Nam, trong khi hiệu quả dài hạn là thuộc tính được ưu tiên nhất khi bác sĩ lựa chọn thuốc sinh học. Kết quả nghiên cứu góp phần đưa ra quyết định chung giữa bác sĩ và bệnh nhân nhằm cải thiện sự tuân thủ của bệnh nhân cũng như hiệu quả điều trị.