CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

  • Duyệt theo:
1 Knowledge of breastfeeding and associated factors in lactating mothers with children below 6 months old in 2023 at E Hospital, Hanoi, Vietnam / Nguyen Thi Thu Uyen, Nguyen Thi Ngoc Anh, Le Thi Thu Phuong, Ninh Thi Phuong Mai, Truong Van Quy // .- 2025 .- Tập 190 - Số 5E16 .- P. 247-257 .- 610
Breastfeeding is a natural and effective way to protect mothers‘ and children‘s health. This research aims to evaluate knowledge of breastfeeding among mothers with their children under 6 months old visiting the E Hospital, a tertiary hospital in Hanoi, Vietnam. A cross-sectional study was conducted using a predesignated, self-administered questionnaire based on the recommendation from the WHO. A special scaling system was employed to calibrate between different types of questions. Data was collected from the survey from 1/2023 to 10/2023 using the platform REDCap and analyzed using the software SPSS®.
2 Delayed diagnosis of Hyperinsulinism Hyperammonemia Syndrome: A case report / Can Thi Bich Ngoc, Nguyen Ngoc Khanh // .- 2025 .- Tập 190 - Số 5E16 .- P. 258-263 .- 610
Hyperinsulinism Hyperammonemia Syndrome (HI/HA syndrome) is an autosomal dominant disease caused by activating mutations in GLUD1, the gene responsible for encoding the mitochondrial enzyme glutamate dehydrogenase (GDH). This syndrome represents the second most common genetic form of congenital hyperinsulinism in infancy. Children with HI/HA syndrome typically experience hypoglycemic symptoms triggered by fasting or high-protein meals and persistently elevated ammonia levels. We report a case of HI/HA syndrome in a 7-month-old female who presented with cyanosis and hyperammonemia, along with an initial normal glucose level at the time of presentation. About one week after the child’s admission to the hospital, we discovered that hypoglycemia was the cause of her irritability. The hypoglycemic episode was found to occur coincidentally with hyperammonemia. The combination of clinical findings, biochemical markers, and genetic sequencing identifying a GLUD1 pathogenic variant facilitated the correct diagnosis of HI/HA syndrome. As demonstrated by this case, the diagnosis of HI/HA syndrome requires a thorough clinical evaluation, comprehensive biochemical analysis, and genetic testing. With the correct diagnosis, a patient with HI/HA syndrome can receive ongoing monitoring and care with the goal of preventing adverse neurologic sequelae.
3 Kenny-Caffey Syndrome type 2: Insight from two Vietnamese cases / Can Thi Bich Ngoc, Nguyen Ngoc Khanh // .- 2025 .- Tập 190 - Số 5E16 .- P. 264-270 .- 610
We report two unrelated 8-year-old Vietnamese girls diagnosed with Kenny-Caffey Syndrome type 2 (KCS2), each harboring the same heterozygous pathogenic variant in the FAM111A gene (c.1706G>A, p.Arg569His). Case 1 presented initially at age 4 with poor growth and persistent anterior fontanelle. At age 8, she exhibited severe short stature (-4.5 SDS), macrocephaly, small hands, and craniofacial dysmorphisms. Additional findings included persistent fontanelle, hyperopia with amblyopia, cortical thickening of long bones, and asymptomatic hypocalcemia with normal parathyroid hormone (PTH) levels. Brain MRI showed a thin pituitary gland. Case 2 presented with short stature (-4.96 SDS), a history of hypocalcemic seizures, and congenital astigmatism. She had normal facial appearance but showed cortical bone thinning, absent pituitary lobes, and hypocalcemia with inappropriately low PTH levels. Despite calcium supplementation, normocalcemia was achieved only after calcitriol therapy. Growth hormone was later initiated with favorable growth response. Both cases underscore the variable expressivity of KCS2 and highlight the diagnostic value of genetic testing in children with unexplained short stature, skeletal anomalies, and calcium disturbances. The study contributed additional data on NKX6-2 variants in Vietnamese patients.
4 Vaginal leiomyoma: A case report / Tran Ngoc Dung, Nguyen Anh Quan // .- 2025 .- Tập 190 - Số 5E16 .- P. 271-276 .- 610
Vaginal leiomyomas are rare, benign mesenchymal tumors. Since Denys de Leyden identified the first case in 1733, there have been only around 300 reported cases. This case of a surgically treated vaginal leiomyoma highlights the importance of considering this rare diagnosis in reproductive-age women. We provide a review of the relevant literature on diagnosis and management.
5 Nghiên cứu tổng hợp xanh hóa nano bạc từ cao chiết cây Cúc leo (Mikania micrantha Kunth) / // Khoa học và công nghệ Việt Nam .- 2025 .- Số 1B .- Tr. 67 - 74 .- 574
Trong nghiên cứu này, hạt nano bạc được tổng hợp xanh hóa với cao chiết cây Cúc leo (Mikania micrantha Kunth) có vai trò là tác nhân khử tiền chất bạc nitrate và polyvinyl pyrrolidone (PVP) là chất ổn định. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của hạt nano bao gồm nồng độ bạc nitrate, nồng độ cao chiết và thời gian phản ứng được khảo sát với mục tiêu tạo ra hạt nano bạc có hình dạng và kích thước mong muốn. Điều kiện thích hợp để tổnghợp nano bạc từ cao chiết cây Cúc leo bao gồm: nồng độ AgNO3 0,030 M, nồng độ cao chiết là 2,50 mg/ml, thời gian phản ứng là 90 phút tại nhiệt độ phòng. Thông qua kết quả quang phổ - tử ngoại khả kiến (UV-Vis), kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM), kính hiển vi điện tử truyền qua phân giải cao (HR-TEM), kính hiển vi điện tử quét (SEM), phổ phân tán năng lượng tia X (EDS), tán xạ ánh sáng động (DLS) và thế zeta cho thấy đã tổng hợp thành công hạt nano bạc có dạng cầu, kích thước trung bình khoảng 47,1 nm. Nano bạc được tổng hợp từ cao chiết cây Cúc leo thân thiện với môi trường hứa hẹn sẽ mang lại nhiều tiềm năng ứng dụng trong tương lai.
6 Đánh giá biểu hiện của phân tử microRNA osa-miR160a trên các giống lúa chống chịu và mẫn cảm với nấm Magnaporthe oryzae gây bệnh đạo ôn / // Khoa học và công nghệ Việt Nam .- 2025 .- Số 1B .- Tr. 58 - 61 .- 574.0113
Bệnh đạo ôn ở lúa do nấm Magnaporthe oryzae gây ra làm thiệt hại năng suất lúa mỗi năm đủ để nuôi sống 60 triệu người. Những nghiên cứu gần đây cho thấy, các phân tử microRNAs liên quan đến khả năng chống chịu với nấm M. oryzae. Trong đó, osa-miR160 được báo cáo là có vai trò điều hòa tăng hiệu quả chống chịu nấm M. oryzae bằng cách kiểm soát các gen đáp ứng với auxin, ARFs (auxin response transcription factors) trên cây lúa. Trong nghiên cứu này, các tác giả phân tích và đánh giá mức độ tích lũy của osa-miR160a trên các giống lúa mẫn cảm và chống chịu với bệnh đạo ôn được trồng tại Việt Nam dựa trên kỹ thuật qRT-PCR. Mặc dù mức độ biểu hiện của osa-miR160a có sự thay đổi khác nhau giữa các giống lúa tại các thời điểm sau khi nhiễm (hpi), nhưng chỉ tại thời điểm 24 hpi mới có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về biểu hiện của osa-miR160a giữa nhóm lúa kháng và nhóm lúa mẫn cảm với bệnh đạo ôn. Mức độ biểu hiện của osa-miR160a ở thời điểm 24 hpi trên nhóm lúa kháng cao gấp 2,6 lần so với trên nhóm lúa mẫn cảm. Kết quả này cho thấy, osa-miR160a là một chỉ thịphân tử tiềm năng trong việc đánh giá khả năng chống chịu với nấm M. oryzae của các giống lúa trồng tại Việt Nam hiện nay.
7 Phân lập, tuyển chọn vi khuẩn sinh pectinase từ đất trồng và vỏ quả cà phê, ứng dụng trong lên men sản xuất cà phê / // Khoa học và công nghệ Việt Nam .- 2025 .- Số 1B .- Tr. 52 - 57 .- 574.0113
Pectinase là nhóm enzyme thủy phân pectin, một loại polysaccharide có ở thành tế bào thực vật, tạo ra hợp chất phân tử thấp như galacturonic, galactose, arabinose, methanol… Pectinase được phép sử dụng trong thực phẩm do không ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm phân lập, tuyển chọn các chủng vi khuẩn có khả năng sinh tổng hợp pectinase và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt độ pectinase của các chủngvi khuẩn, làm cơ sở cho nghiên cứu ứng dụng loại bỏ pectin trên lớp vỏ nhầy trong quá trình lên men sản xuất cà phê. 32 chủng vi khuẩn đã được phân lập từ các mẫu đất trồng cà phê và vỏ cà phê khô thu thập tại Tây Nguyên và Quảng Trị, trong đó 4 chủng có hoạt độ pectinase cao nhất là ĐA2.7; ĐA3.1; ĐA4.1 và VC1.1. Các chủng vi khuẩn đã tuyển chọn được định danh dựa trên trình tự gen mã hóa 16S rRNA, cụ thể: chủng ĐA2.7, ĐA3.1 tương đồng với Calidifontibacillus erzurumensis; chủng ĐA4.1 tương đồng với Bacillus stercoris; chủng VC1.1 tương đồng với Bacillus subtilis. Điều kiện lên men thích hợp cho chủng VC1.1 sinh pectinase là môi trường pH 5,0 ở 50ºC trong 48 giờ. Pectinase thô được ứng dụng trong lên men cà phê thu được sản phẩm có hàm lượng chất khô hòa tan đạt 6,10°Brix và caffein đạt 0,6/100 mg.
8 Xác định hàm lượng các nguyên tố kim loại trong mô thịt của một số loài cá phổ biến vùng cửa sông Bạch Đằng, Hải Phòng / // Khoa học và công nghệ Việt Nam .- 2025 .- Số 1B .- Tr. 31 - 39 .- 574.028
Bài báo trình bày các kết quả nghiên cứu về hàm lượng các kim loại magie (Mg), sắt (Fe), kẽm (Zn), đồng (Cu), Mangan (Mn), Asen (As), Cadimi (Cd), thủy ngân (Hg) trong 3 loài cá phổ biến ở khu vực: cá trích bầu (Escualosa thoracata), lành canh đuôi phượng (Coilia mystus) và đối mục (Mugil cephalus) trong đợt thu mẫu năm 2020 tại vùng cửa sông Bạch Đằng - Hải Phòng. Kết quả phân tích cho thấy, hàm lượng các nguyên tố kim loại trong mẫu cá dao động như sau: Mg: 854,19-1718,01 mg/kg khô; Fe: 32,60-167,89 mg/kg khô; Zn: 26,33-108,47 mg/kg khô; Mn: 0,92-25,46 mg/kg khô; Cu: 1,63-9,33 mg/kg khô; As: 0,56-13,11 mg/kg khô; Hg: 0,00-0,40 mg/kg khô; Cd: 0,01-0,10 mg/kg khô. Hàm lượng các nguyên tố kim loại trong 3 loài cá khu vực nằm trong giới hạn theo QCVN 8-2:2011/BYT đồng thời cũng thuộc giới hạn của Ủy ban châu Âu 2006 và giới hạn của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc/Tổ chức Y tế thế giới (FAO/WHO) (1989). Các mẫu nghiên cứu chỉ ra mối tương quan đáng kể giữa Fe-Cu, Zn-Cu, Hg-Cd. Cá lành canh đuôi phượng tích lũy nồng độ cao của Mn, Mg, Hg, Cd; cá trích bầu tích lũy nồng độ cao của Fe, Zn, Cu; cá đối mục tích tụ hàm lượng thấp kim loại As.
9 Tổng hợp vật liệu hỗn hợp Cu/C bằng nhiệt phân yếm khí Cu-MOF và ứng dụng làm xúc tác cho phản ứng phân hủy 4-nitrophenol / // Khoa học và công nghệ Việt Nam .- 2025 .- Số 1B .- Tr. 25 - 30 .- 363.7
Vật liệu Cu-MOF được tổng hợp bằng phương pháp nhiệt dung môi qua phản ứng giữa CuCl2.2H2O và 1,4-benzenedicarboxylic acid (H2BDC) trong hệ dung môi H2O/DMF (1:1, v/v) ở 100°C trong 24 giờ. Quá trình carbon hóa vật liệu Cu-MOF ở 600°C trong dòng khí argon trong 1 giờ đã tổng hợp thành công vật liệu C@Cu-MOF. Qua phân tích phổ nhiễu xạ tia X trên bột (PXRD) cho thấy, có sự chuyển hoàn toàn các peak nhiễu xạ tương ứng với pha tinh thể của CuMOF sang peak nhiễu xạ của tinh thể đồng kim loại tương ứng với vật liệu C@CuMOF. Hình ảnh SEM của Cu-MOF minh họa các tinh thể hình kim kích thước micro. Sau khi carbon hóa, hình ảnh kính hiển vi điện tử quét (scanning electron microscope - SEM) của C@Cu-MOF cho thấy, có sự tạo thành các hạt nano đồng kim loạiphân bố trên khung sườn vật liệu. Vật liệu C@Cu-MOF tạo thành được khảo sát hoạt tính xúc tác phản ứng khử chất thải ô nhiễm 4-nitrophenol với tác nhân khử NaBH4. Kết quả được so sánh với các nghiên cứu trước đó dựa trên xúc tác nano kim loại quý và kim loại chuyển tiếp cho thấy C@Cu-MOF có hoạt tính xúc tác cao. Sau khi tái sử dụng cho ba lần phản ứng liên tiếp, hoạt tính xúc tác giảm không đáng kể (<3%), chứng tỏ xúc tác có độ bền cao.
10 Nguy cơ tội phạm sử dụng công nghệ deepfake trong giao dịch ngân hàng / Phạm Ngọc Minh, Hồ Tú Cường // Khoa học và công nghệ Việt Nam .- 2025 .- Số 1A .- Tr. 58 - 60 .- 004
Công nghệ deepfake là một lĩnh vực của trí tuệ nhân tạo (AI) và học máy (machine learning), với khả năng tạo ra các hình ảnh, video hoặc âm thanh giả mạo một cách rất chân thực, đang trở thành mối đe dọa ngày càng lớn trong lĩnh vực ngân hàng. Tội phạm có thể lợi dụng công nghệ này để thực hiện các hành vi gian lận và lừa đảo tinh vi. Bài viết khái quát về công nghệ deepfake, qua đó nhận diện một số thủ đoạn lừa đảo sử dụng công nghệ này trong hoạt động ngân hàng, từ đó đưa ra một số giải pháp khắc phục, phòng tránh.