CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

chủ đề: Doanh nghiệp

  • Duyệt theo:
141 Tác động từ chuyển đổi số đến sự thay đổi cấu trúc kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa / Nguyễn Ngọc Anh // .- 2023 .- Số 815 - Tháng 12 .- Tr. 41-43 .- 332

Chuyển đổi số là xu hướng tất yếu đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ở Việt Nam, giúp định hình lại chiến lược và mô hình kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, chuyển đổi cơ cấu tổ chức và văn hóa kinh doanh thường bắt đầu từ chuyển đổi công nghệ sản xuất sang nhận thức quản lý để có được chiến lược chuyển đổi kỹ thuật số hiệu quả. Bài viết này tổng quan các nghiên cứu tác động từ chuyển đổi số tới sự thay đổi cấu trúc kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam, qua đó, đề xuất mô hình nghiên cứu tác động của chuyển đổi số với sự thay đổi cấu trúc kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế số hiện nay.

142 Thúc đẩy phát triển marketing xanh ở Việt Nam / Hoàng Thị Hoa // .- 2023 .- Số 815 - Tháng 12 .- Tr. 51-53 .- 332

Phát triển bền vững là một chỉ tiêu quan trọng mà hầu hết doanh nghiệp đều đang hướng đến nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu và bắt kịp xu hướng sống xanh. Việc ngày càng nhiều người quan tâm tới việc bảo vệ môi trường sẽ là động lực to lớn thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển các chiến lược Marketing xanh. Thực tế cho thấy, Marketing xanh dần trở thành chiến lược chủ chốt của nhiều thương hiệu. Ở Việt Nam, khái niệm này vẫn còn khá mới mẻ và chưa được ứng dụng rộng rãi. Dự báo, Marketing xanh sẽ nhanh chóng trở thành xu hướng tất yếu ở Việt Nam, trở thành nhiệm vụ mà các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm và chú trọng đầu tư, để có thể bắt kịp với xu thế và yêu cầu của các cam kết quốc tế về môi trường.

143 Ứng dụng F-score để dự báo khả năng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam / Phạm Quốc Việt, Huỳnh Phước Thiện // .- 2023 .- Số 815 - Tháng 12 .- Tr. 65-67 .- 332

Bài viết thử nghiệm chỉ số F-score (là một thước đo tổng hợp về tình hình tài chính của doanh nghiệp) để dự báo khả năng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời so sánh với chỉ số Z-score, là công cụ dự báo phổ biến trên thị trường. Mẫu dữ liệu cân bằng từ 660 công ty phi tài chính niêm yết trong giai đoạn 2012-2022 được sử dụng để kiểm tra các giả thuyết nghiên cứu. Kết quả cho thấy, F-score và Z-score đều có quan hệ nghịch biến với xác suất kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp, đồng thời khả năng dự báo đúng của hai chỉ số trên là tương đương nhau (84,2% so với 84,44%). Kết quả này làm cơ sở cho đề xuất sử dụng F-score trong dự báo kiệt quệ tài chính cho các công ty phi đại chúng ở Việt Nam.

144 Các yếu tố cần thiết để thực hiện đổi mới sáng tạo xanh trong doanh nghiệp / Trương Thị Ngọc Thuyên // .- 2023 .- Số 11 (546) - Tháng 11 .- Tr. 28-37 .- 658

Nghiên cứu này sử dụng đổi mới sáng tạo xanh là sự vận dụng đổi mới sáng tạo để hướng đến phát triển phương pháp phân tích thứ bậc (AHP) nhằm làm rõ nhận định của doanh nghiệp về tầm quan trọng của các yếu tố cần thiết để thực hiện đổi mới sáng tạo xanh trong doanh nghiệp. Qua những nhận định của các chuyên gia, các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh có ảnh hưởng lớn nhất, tiếp đến là các yếu tố thuộc về hệ thống quản lý và các yếu tổ thuộc về năng lực cốt lõi xanh của doanh nghiệp. Nghiên cứu đề ra những định hướng trong chính sách để thúc đẩy đổi mới sáng tạo xanh.

145 Liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân trong phát triển ngành mía đường: kinh nghiệm của thái lan và bài học cho Việt Nam / Ma Ngọc Ngà // .- 2023 .- Số 11 (546) - Tháng 11 .- Tr. 102-111 .- 658

Thái Lan là quốc gia đi đầu trong việc thúc đẩy liên kết trong sản xuất nông nghiệp nhân trong nước và nước ngoài đầu tư vào nông nghiệp. Các hợp đồng nông nghiệp là cơ sở quan trọng để Chính phủ thiết lập các kế hoạch phát triển nông nghiệp. Trong liên kết nông nghiệp, vai trò của các công ty tư nhân là cung ứng đầu vào tín dụng, hỗ trợ kỹ thuật và mua sản phẩm đầu ra của nông dân. Mía đường là một trong những ngành được coi là thành công nhất của Thái Lan trong việc phát huy sức mạnh của mô hình liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân. Từ kinh nghiệm của Thái Lan, bài viết đưa ra một số bài học và gợi ý chính sách cho Việt Nam trong liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân trong phát triển ngành mía đường.

146 Quản trị nguồn nhân lực xanh và hành vi xanh của người lao động: Nghiên cứu vai trò trung gian của trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và môi trường tâm lý xanh tại thành phố Cần Thơ / Ngô Mỹ Trân, Lê Thị Thu Trang, Phạm Ngọc Tú Uyên // .- 2023 .- Số 318 - Tháng 12 .- Tr. 63-72 .- 658

Kết quả phân tích PLSSEM cho thấy quản trị nguồn nhân lực xanh có ảnh hưởng tích cực trực tiếp và gián tiếp thông qua nhân tố môi trường tâm lý xanh đến hai loại hành vi xanh của người lao động. Trong khi đó, nhân tố trách nhiệm xã hội chỉ được ghi nhận có ảnh hưởng trung gian đến mối quan hệ giữa quản trị nguồn nhân lực xanh và hành vi xanh tự nguyện. Ngoài ra, bằng chứng thống kê còn cho thấy quản trị nguồn nhân lực xanh có ảnh hưởng tích cực đến trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và môi trường tâm lí xanh. Trên cơ sở đó, một số hàm ý quản trị được đề xuất nhằm thúc đẩy quản trị nguồn nhân lực xanh và tăng cường hành vi xanh của người lao động.

147 Nghiên cứu thực nghiệm về cơ chế thúc đẩy hành vi môi trường chủ động của doanh nghiệp tại tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam / Phạm Thành Thái, Trần Thị Thu Hòa, Lê Văn Tháp, Hoàng Gia Trí Hải // .- 2023 .- Số 09 .- Tr. 106-123 .- 658

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng áp lực thể chế, áp lực khách hàng, áp lực xã hội, và áp lực nội bộ đều có tác động dương lên hành vi môi trường chủ động của doanh nghiệp, trong đó, áp lực nội bộ có tác động mạnh nhất. Nghiên cứu cũng đề xuất một số hàm ý thực tiễn quan trọng nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách và các bên liên quan thúc đẩy các doanh nghiệp áp dụng trách nhiệm môi trường và kinh doanh theo hướng bền vững.

148 Mối quan hệ giữa nhận thức trách nhiệm xã hội doanh nghiệp và hiệu quả công việc: Tác động trung gian của sự gắn kết và sự hài lòng của nhân viên tại các ngân hàng thương mại Việt Nam / Phan Chung Thủy, Phan Thu Hiền, Nguyễn Thuỳ Vương, Nguyễn Thị Mỹ Linh // .- 2023 .- K2 - Số 254 - Tháng 12 .- Tr. 61-67 .- 658

Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra nhận thức CSR của nhân viên ngân hàng có tác động tích cực đến sự gắn kết và sự hài lòng của nhân viên. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, một số hàm ý quản trị nhằm nâng cao hiệu quả công việc thông qua các hoạt động trách nhiệm xã hội của các ngân hàng cũng được đề xuất.

149 Nhân tố ảnh hưởng đến vận dụng kế toán quản trị tại các doanh nghiệp chế biến gỗ, tre, nứa / Trần Hằng Diệu // .- 2023 .- Số 814 .- Tr. 93-95 .- 657

Nghiên cứu nhằm làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến việc vận dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa ở Việt Nam qua khảo sát 331 doanh nghiệp. Kết quả cho thấy, 6 nhân tố: Trình độ công nghệ; Rủi ro đối với hoạt động sản xuất gỗ và chế biến các sản phẩm từ gỗ, tre, nứa; Nhận thức của chủ doanh nghiệp về kế toán quản trị; Trình độ chuyên môn của nhân viên kế toán; Chi phí cho việc thực hiện kế toán quản trị đều có ảnh hưởng đến việc vận dụng kế toán quản trị; Vận dụng kế toán quản trị giúp nâng cao hiệu quả hoạt động. Dựa trên kết quả nghiên cứu, tác giả đưa ra một số hàm ý chính sách nhằm nâng cao việc vận dụng kế toán quản trị tại các doanh nghiệp.

150 Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nhà nước và yêu cầu đặt ra với tập đoàn điện lực quốc gia Lào / Outhone Singdala // .- 2023 .- Số 814 .- Tr. 132-136 .- 658

Thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng là một trong các yêu cầu bức thiết đặt ra đặc biệt tại các nước đang trong quá trình hội nhập, mở cửa đất nước như Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Để giúp hệ thống hóa cũng như cung cấp thêm các cơ sở luận nhằm làm rõ hơn những vấn đề này, bài viết đã đưa ra quan niệm và phân tích vai trò của việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh hiện nay. Bài viết đã đưa ra những so sánh sự khác biệt giữa thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nhà nước và thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tư nhân, đồng thời phân tích những yêu cầu đối với Tập đoàn Điện lực Quốc gia Lào trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nhà nước.