CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

Khoa Khoa học Xã Hội & Nhân Văn

  • Duyệt theo:
11 ChatGPT và khả năng hiểu ngữ cảnh, hồi đáp lời than phiền gián tiếp của người Việt / Lại Thị Minh Đức // .- 2023 .- Volume 7 (N4) - Tháng 6 .- Tr. 01-08 .- 495.92

Bài báo này nghiên cứu việc liệu ChatGPT có hiểu được những phát ngôn than phiền gián tiếp (có tiền giả định và hàm ý thái độ, mang đặc trưng văn hóa Việt Nam trong đó) và cách ChatGPT ho i đa pcác phát ngôn than phiền ấy (reponse to indirect complaints). Đối với các công ty đang ứng dụng trí tuệ nhân tạo AI (chat robo) vào dịch vụ chăm sóc khách hàng, việc cần phải giải quyết than phiền từ khách hàng một cách chuyên nghiệp và lịch sự là rất quan trọng.

12 Canadian digital dimplomacy on the Facebook platform in Vietnam / Nguyen Thai Hoang Hanh // .- 2023 .- Volume 8 (N1) - Tháng 9 .- P. 26-33 .- 327

Bài viết này xem xét việc ngoại giao số của Canada trên nền tảng mạng xã hội ở Việt Nam nhằm xác định điểm mạnh và điểm yếu. Đồng thời bài viết cũng đưa ra một số khuyến nghị nhằm thúc đẩy ngoại giao số của Canada tại Việt Nam cũng như đưa ra vài hàm ý cho chính sách ngoại giao số của Việt Nam.

13 Những từ ngữ địa phương Nam bộ trong các tác phẩm văn xuôi từ cuối thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20 / Trần Văn Tiếng // .- 2023 .- Volume 8 (N1) - Tháng 9 .- Tr. 34-39 .- 495.92

Văn xuôi Nam Bộ cuối thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20 là một bộ phận quan trọng trong văn học Việt Nam thời cận đại. Các tác phẩm văn xuôi Nam Bộ ra đời trong giai đoạn này đánh dấu bước chuyển tiếp từ lối hành văn cũ sang cách thể hiện mới của chữ Quốc ngữ.

14 Tác động của MXH và vai trò định hướng thông tin của báo chí đối với MXH về vấn đề bình đẳng giới / Trần Thị Hòa // .- 2024 .- Số 4 - Tháng 4 .- Tr. 115-119 .- 070

Mạng xã hội có tác động kép đối với nhận thức về bình đẳng giới: Giúp thúc đẩy sự tiến bộ trong nhận thức về bình đẳng giới, tăng cường khả năng kết nối và sự tự tin để cải thiện cuộc sống; Củng cố một số định kiến về giới. Nghiên cứu gợi ý cần quan tâm đến sự cần thiết, vai trò định hướng thông tin của báo chí cũng như vai trò chọn lọc thông tin của các nhà quản lý để mạng xã hội thực sự có thể phát huy tác dụng trong truyền thông về bình đẳng giới

15 Hoạt động tập kết chuyển quân tại Cao Lãnh năm 1954 / Lê Đình Trọng, Nguyễn Ngọc Anh Thư, Bùi Phước Vinh // .- 2023 .- Tập 12 - Số 9 .- Tr. 112 - 120 .- 959

Sau thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, Hiệp định Genève được ký kết, nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền, lấy Vĩ tuyến 17 làm ranh giới quân sự tạm thời. Việc đình chiến quy định quân đội hai bên ngừng bắn, quân đội cách mạng phải tập kết ra Bắc, còn quân đội Pháp phải tập kết vào Nam, sau hai năm, sẽ bắt đầu tổng tuyển cử và thống nhất lại đất nước... Cao Lãnh lúc bấy giờ là một trong ba điểm tập kết chuyển quân ra Bắc, có thời gian 100 ngày chuẩn bị tập kết và chuyển quân. Trong thời gian này, quân dân Cao Lãnh đã tổ chức nhiều hoạt động quan trọng như: xây lại mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, xây dựng bia tưởng niệm, dạy học,… tạo tiếng vang lớn, giúp cho vững lòng hơn đối với cả người đi và người ở lại, khiến họ vững tin đấu tranh xây dựng, vun đắp cho cách mạng Việt Nam nói chung, ở Cao Lãnh nói riêng.

16 Hai bản tấu thư của Phúc Khang An và câu trả lời của Lê Quýnh ở Trung Hoa / Nguyễn Duy Chính // .- 2023 .- Vol 2 - 04(08) .- Tr. 98 - 119 .- 959

Để vô hiệu hóa các nhóm thân Lê muốn nổi lên chống lại triều đình Tây Sơn, Phúc Khang An (Tổng đốc Lưỡng Quảng) đã giả vờ mời họ sang Trung Hoa “bàn quốc sự” và mưu tính việc tiến quân sang An Nam lần thứ hai. Khi thành phần đầu não của lực lượng nhà Lê đến Quảng Tây, Phúc Khang An thông báo triều đình Tây Sơn đã được nhà Thanh công nhận và khuyên những bầy tôi nhà Lê hãy cắt tóc và đổi sang y phục nhà Thanh để được an tháp. Lê Quýnh thấy mình bị đánh lừa nên đã trả lời: “Đầu tôi có thể chặt nhưng tóc không thể cắt, da tôi có thể lột nhưng áo không thể đổi. Chúng tôi sống làm người An Nam, chết làm ma An Nam”.

17 Ảnh hưởng của lo âu trí tuệ nhân tạo đến ý định học tập trí tuệ nhân tạo của sinh viên khối ngành Kinh tế tại Hà Nội / Nguyễn Hồng Châu Linh, Nguyễn Thúy Quỳnh, Chu Thị Như Quỳnh // .- 2024 .- Số 5 - Tháng 5 .- Tr. 17-23 .- 370

Nghiên cứu tập trung khai thác các khía cạnh của trạng thái tâm lý lo âu trí tuệ nhân tạo hay lo âu AI (Arrtificial Intelligence Anxiety - AIA) và xác định mức độ ảnh hưởng của từng khía cạnh đối với ý định học tập AI của sinh viên khối ngành kinh tế tại Hà Nội. Các thành tố để lựa chọn phân tích lo âu AI bao gồm: Lo âu học tập AI; Lo âu cấu hình AI; Lo âu thay thế công việc; Mù kỹ thuật xã hội.

18 Sự kiện ngày 19 tháng 01 năm 1974 và bài học kinh nghiệm lịch sử về bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam trong bối cảnh hiện nay / Ngô Văn Minh // .- 2024 .- Số 1 (189) .- Tr. 82 - 91 .- 959

Bài viết nhằm điểm lại chuỗi sự kiện Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, từ việc nước này bành trướng trên bản đồ, lên tiếng tranh chấp chủ quyền đến lén lút chiếm đóng bất hợp pháp, cho tàu thuyền giả dạng đánh cá dò thám để khi có cơ hội thì sẵn sàng dùng vũ lực đánh chiếm. Nhìn nhận lại các sự kiện và mưu đồ của Trung Quốc, trong công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay chúng ta cần phải chủ động, bình tĩnh và ngăn ngừa nguy cơ xung đột trên biển từ sớm, từ xa, không để rơi vào tình huống bị động, bất ngờ; phải đặc biệt coi trọng vấn đề an ninh, chủ quyền biển đảo nhất là ở những thời điểm nhạy cảm, phức tạp và phải bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, lợi ích quốc gia dân tộc trên các vùng biển đảo của Tổ quốc bằng chính nội lực của đất nước kết hợp với tính chính nghĩa và sức mạnh của thời đại.

19 Việc công nhận chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam qua các ấn bản quốc tế tại Anh, Đức, Ấn Độ, Pháp, Bohemia, Nga, It alia, Tây Ban Nha ở thế kỷ XIX / Nguyễn Quang Trung Tiến // .- 2024 .- Số 1 (189) .- Tr. 55 - 81 .- 959

Từ quá trình xác lập chủ quyền lịch sử khai thác đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thời các chúa Nguyễn ở thế kỷ XVII thông qua hoạt động của các đội Hoàng Sa và Bắc Hải; đến năm 1816, vua Gia Long của vương triều Nguyễn tiến hành chiếm hữu chính thức về mặt nhà nước đối với quần đảo Hoàng Sa thông qua việc phái đội thủy quân của triều đình Huế đi cùng đội Hoàng Sa ra xem xét và xác lập chủ quyền của Việt Nam tại đó. Sự kiện tuyên bố chiếm hữu chính thức về mặt nhà nước của triều Nguyễn đối với quần đảo Hoàng Sa từ năm 1816 đã được cộng đồng quốc tế công nhận rộng rãi thông qua nhiều ấn bản tại các nước Anh, Đức, Ấn Độ, Pháp, Bohemia, Nga, Italia, Tây Ban Nha mà không có bất kỳ quốc gia liên quan nào lên tiếng phản đối trong suốt thế kỷ XIX. Đó là những cơ sở pháp lý quốc tế vững chắc góp phần phục vụ đắc lực cho công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa Trường Sa nói riêng, biển đảo của Việt Nam nói chung trong hiện tại.

20 Tạ biểu của vua Chiêu Thống sau khi được phong An Nam Quốc Vương / Nguyễn Duy Chính // .- 2024 .- Số 1 (189) .- Tr. 45 - 54 .- 959

Ngày 22 tháng Một năm Càn Long 53 (19/12/1788) Tôn Sĩ Nghị mang sắc ấn vào phong cho Lê Duy Kỳ làm An Nam quốc vương. Mười ngày sau, Mồng 2 tháng Chạp năm Càn Long 53 (28/12/1788), vua Chiêu Thống gửi tờ biểu đầu tiên lên Thanh đình tạ ơn vua Càn Long đã sai người đem quân sang giúp ông khôi phục kinh thành. Đây cũng là văn bản đầu tiên của Lê Duy Kỳ gửi sang Trung Hoa, có đóng dấu An Nam quốc vương mới được ban. Tuy sắc thư phong vương của vua Thanh và chiếc ấn bạc mạ vàng được gửi sang An Nam cùng lá thư tạ ơn của Lê Duy Kỳ không có giá trị gì trong lịch sử nhưng cũng là dấu tích một thời, có giá trị tài liệu tiên nguyên (primary source) nên bài viết bổ túc những phần bị bỏ trống trong một giai đoạn nhiễu nhương mà ít người để tâm đến.