Một đặc điểm chung của các cuộc cải cách giáo dục theo mô hình phương Tây ở châu Á trong thế kỷ XIX và XX là việc đưa tiếng Anh vào chương trình giảng dạy ở hầu hết các quốc gia. Khác với các cường quốc thuộc địa trong khu vực, cải cách giảo dục của Mỹ ở Philippines đã không chỉ đưa tiếng Anh vào giảng dạy như là một ngoại ngữ mà nó còn được chọn làm phương tiện giảng dạy ở tất cả các bậc học và xa hơn là trở thành ngôn ngữ chính thức. Bài viết tập trung làm rõ bối cảnh, nội dung và quá trĩnh thực thi cải cách giáo dục của Mỹ ở Philippines trên lĩnh vực ngôn ngữ trong giai đoạn từ 1900 đến 1935. Trên cơ sở đó, với cách tiếp cận liên ngành giữa lịch sử, ngôn ngữ, và văn hoá, bài viết sẽ phân tích củng như thảo luận những hệ quả của cải cách này đối với Philippines từ đó cho đến nay. Chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng Philippines là một trường hợp điển hỉnh của quốc gia phải đối mặt với những mâu thuẫn trong việc giải quyết vấn đề ngôn ngữ thời hậu thuộc địa, giữa một bên là xu hướng hội nhập, toàn cầu hoả và một bên là ý thức bảo vệ sự đa dạng ngôn ngữ dân tộc và định hình bản sắc quốc gia.
Quá trình thực thi luật biển quốc tế ở Việt Nam bắt đầu từ sự kiện năm 1994 khi Việt Nam phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982. Kể từ khi trở thành thành viên của Công ước luật biển, Việt Nam đã thể hiện là quốc gia có trách nhiệm trong việc luật hóa luật biển, hệ thống pháp luật của Việt Nam về biển đảo được ban hành đồng bộ, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, hợp tác quốc tế về biển. Hơn hai thập niên thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển, Việt Nam đã có được những bài học kinh nghiệm trong hoạch định và thực thi chính sách biển, trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyển chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên biển, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển. Trên cơ sở đó, bài nghiên cứu phăn tích và luận giải những nội dung của luật biển quốc tế đã được Việt Nam vận dụng trong nội luật hóa, triển khai thực hiện trong thời gian qua, và định hướng cho thời gian tới.
Bài viết phân tích thực trạng chuyển đổi kép tại các doanh nghiệp Việt Nam, với trọng tâm là chuyển đổi số kết hợp chuyển đổi xanh, đồng thời làm rõ những thách thức lớn về nhân lực, tài chính và hạ tầng công nghệ. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất các giải pháp chiến lược nhằm thúc đẩy doanh nghiệp chuyển đổi kép thành công, bao gồm phát triển hạ tầng số, thúc đẩy tài chính xanh, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và mở rộng hợp tác quốc tế. Những giải pháp này hướng tới mục tiêu tăng cường năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững và chuyển đổi toàn diện sang kinh tế xanh và kinh tế số.
Nghiên cứu này xem xét tác động của vốn lưu động ròng (RNWC) đến điều chỉnh lợi nhuận thực (REM) của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ 498 doanh nghiệp với 3.545 quan sát trong giai đoạn 2006-2020 được cung cấp bởi công ty Vietstock. Tác giả thực hiện phương pháp hồi quy bình phương tối thiểu nhỏ nhất (Pooled OLS) và bình phương tối thiểu tổng quát (FGLS), đồng thời kiểm soát tác động cố định theo năm để đảm bảo tính vững của kết quả. Kết quả cho thấy vốn lưu động ròng có tác động ngược chiều đến điều chỉnh lợi nhuận thực, phản ánh rằng quản lý vốn lưu động hiệu quả giúp hạn chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Các biến kiểm soát như quy mô doanh nghiệp, đòn bẩy tài chính, tỷ lệ tài sản cố định và dòng tiền từ hoạt động cũng có ảnh hưởng đáng kể đến điều chỉnh lợi nhuận thực của doanh nghiệp. Những phát hiện này không chỉ củng cố lý thuyết đại diện và tín hiệu mà còn cung cấp cơ sở thực tiễn để đưa ra khuyến nghị cho doanh nghiệp, nhà đầu tư và cơ quan quản lý nhằm nâng cao tính minh bạch tài chính.
Trong bối cảnh các vấn đề xã hội như biên đổi khí hậu, tham nhũng, bất bình đẳng,... trở nên bất ổn và khó kiểm soát, việc thực hiện sâu rộng trách nhiệm xã hội đang trở thành xu thế toàn cầu. Lĩnh vực này vừa là yếu cầu, vừa là nhu cầu cấp bách đối với các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập bởi những giả trị mà nó mang lại có ý nghĩa rất lớn cho cả bản thăn doanh nghiệp và các bên liên quan, rộng hơn là cho cả cộng đồng. Các doanh nghiệp tại các quốc gia khu vực sông Mekong, trong đó có Việt Nam đã có sự gia tăng về nhận thức trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội (CSR) thời gian gần đây nhưng thực tế thực hành CSR ở các doanh nghiệp trong khu vực vẫn còn nhiều hạn chế và chưa mang tính đồng bộ. Nghiên cứu được thực hiện nhằm phân tích thực trạng thực hành trách nhiệm xã hội và kiểm tra tác động của điểm số ESG đến hoạt động tài chính của các doanh nghiệp thuộc top 50 Fortune Global kết hợp với phân tích một số điểm nổi bật trong việc thực hành trách nhiệm xã hội tại các quốc gia khu vực sông Mekong, từ đó đưa ra đề xuất nhằm cải thiện hoạt động CSR nói chung tại các quốc gia này, giúp các doanh nghiệp trong khu vực đạt được kết quả tài chính tốt hơn trong tương lai và hướng tới phát triển bền vững.
Bài viết này sử dụng phương pháp nghiên cứu thực nghiệm và phân tích dữ liệu tín dụng xanh, kết hợp với lý thuyết kinh tế, để đánh giá kết quả, hạn chế và nguyên nhân, đồng thời đưa ra khuyến nghị nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế ít cacbon, hỗ trợ nền kinh tế phát triển bền vững trong tương lai.
Tại Việt Nam, tín dụng vẫn đóng vai trò là hoạt động kinh doanh cốt lõi của các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP). Do đó, việc xác định các yếu tố ảnh hưởng và đánh giá mức độ tác động của những yếu tố này đến tăng trưởng tín dụng (TTTD) tại các NHTMCP là vấn đề rất cần thiết. Nghiên cứu sử dụng phương pháp ước lượng FGLS trên dữ liệu từ 22 NHTMCP niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2009-2023. Kết quả cho thấy, tăng trưởng tín dụng chịu ảnh hưởng bởi cả các yếu tố vi mô và vĩ mô. Cụ thể, có ba yếu tố tác động tích cực đến TTTD, bao gồm tăng trưởng tiền gửi (DG), tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE), và tính thanh khoản (LIQ). Ngược lại, quy mô ngân hàng (SIZE) và tỷ lệ lạm phát (INF) lại có tác động tiêu cực đến TTTD. Từ kết quả này, một số khuyến nghị đã được đề xuất nhằm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng tại các NHTMCP ở Việt Nam.
Sau 10 năm (2011 - 2021) triển khai hai kế hoạch phát triển kinh tế xã hội với nhiều biến động của tình hình thế giới và khu vực, đặc biệt vào những năm 2019 - 2021, khi đại dịch Covid-19 bùng phát kéo dài, đã làm cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển quốc gia của Lào, trong đó có các vấn để xã hội gặp nhiều khó khăn. Mặc dù vậy, dưới sự ch ỉ đạo sát sao của Đảng và Nhà nước cùng với sự hợp tác giúp đỡ của cộng đồng Thế giới, tình hình xã hội Lào giai đoạn này có nhiều khởi sắc và đạt được nhiều mục tiêu phát triển. Bằng phương pháp phân tích, tổng hợp và thu thập số liệu từ nhiều nguồn khác nhau, bài viết tập trung phân tích thành tựu và hạn chế trong phát triển một số vấn đề xã hội ở Lào giai đoạn 2011 - 2021 như: xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội, giáo dục, y tế, nguồn nhân lực, từ đó nêu lèn một số hàm ý cho Việt Nam trong hợp tác phát triển xã hội với Lào thời gian tới.
Sự phát triển của công nghệ thông tin và máy tính đã thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Đổi mới này tập trung vào việc tích hợp số hóa vào mọi lĩnh vực ngân hàng nhằm đáp ứng các yêu cầu của thị trường và nhu cầu của khách hàng. Trong bài viết này sẽ nghiên cứu về chuyển đổi số trong hoạt động kinh doanh, từ đó dưa ra một số giải pháp giúp các ngân hàng thương mại Việt Nam tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả và đưa ra trải nghiệm khách hàng một cách dễ dàng và hấp dẫn.
Các nghiên cứu đánh giá các yếu tố tác động đến giá trị doanh nghiệp sử dụng các phương pháp truyền thống khá nhiều. Các nhà nghiên cứu có thể xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến giá trị doanh nghiệp ngành xây dựng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam thông qua các mô hình hồi quy. Hiện nay, các mô hình học máy để xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố cũng có nhiều ưu điểm và được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng. Nhóm tác giả muốn kiểm chứng tính hiệu quả của phương pháp thống kê truyền thống so với các mô hình học máy, đồng thời kiểm tra tính hiệu quả của mô hình học máy hiện đại. Kết quả nghiên cứu cho thấy mô hình NNET có ưu thế hơn so với các mô hình LM, LASSO, GAM, RF, GBM. Các cán bộ quản lý doanh nghiệp, các bên liên quan có thể dựa vào kết quả nghiên cứu này làm cơ sở để đưa ra các quyết định tài chính phù hợp.