Môn học “Kỹ năng tranh tụng của luật sư trong vụ án hình sự” là một môn học có vị trí, vai trò quan trọng trong tổng thể các môn học được triển khai thuộc chương trình đào tạo nghề luật sư theo hệ thống tín chỉ tại Học viện Tư pháp. Môn học này không chỉ đơn thuần giảng dạy về kiến thức, kỹ năng mang tính chuyên môn sâu thuộc lĩnh vực hành nghề của luật sư trên thực tiễn, mà còn đem lại cho người học thái độ tích cực, tình yêu thương, sự cảm thông, sẻ chia với khách hàng cũng như có được ý thức trở thành người luật sư bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, khi hành nghề trên thực tiễn. Đó chính là tình yêu nghề, mong muốn được cống hiến, quyết đi tìm sự thật, lẽ phải, chân lý mà không bị chi phối bởi bất cứ thế lực nào. Trong phạm vi bài viết này, tác giả trình bày những nội dung liên quan đến việc đào tạo môn học Kỹ năng tranh tụng của luật sư trong vụ án hình sự gắn với giáo dục đạo đức, ứng xử nghề nghiệp và bản lĩnh chính trị trong chương trình đào tạo nghề luật sư theo hệ thống tín chỉ tại Học viện Tư pháp.
Để chẩn đoán và điều trị vô sinh do tắc đoạn gần vòi tử cung thì phẫu thuật nội soi là một trong những phương pháp được ưu tiên lựa chọn. Với 125 bệnh nhân vô sinh có tắc đoạn gần vòi tử cung hai bên trên phim chụp tử cung - vòi tử cung (HSG - Hysterosalpingography) được thực hiện phẫu thuật nội soi từ năm 2017 đến năm 2023 tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương.
Troponin là chất chỉ điểm sinh học đặc hiệu cho tổn thương cơ tim. Mục tiêu nghiên cứu: khảo sát nồng độ Troponin I huyết tương và mối liên quan giữa Troponin I huyết tương với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân suy tim mạn tính. Nghiên cứu cắt ngang với 123 bệnh nhân suy tim mạn tính.
Nghiên cứu nhằm đánh giá mối tương quan giữa các dữ liệu nhân trắc học với kích thước của các gân tiềm năng vùng gối có thể làm vật liệu tái tạo dây chằng chéo trước tự thân, trên 93 khớp gối ở 93 người trưởng thành được đo trên cộng hưởng từ.
U thần kinh đệm là khối u ác tính xuất phát từ nhu mô não, việc chẩn đoán sớm và điều trị đích đến nay vẫn là một bài toán đối với y học hiện đại. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh miRNA có ý nghĩa quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của u thần kinh đệm, trong đó miR-125b hoạt động như một gen gây ung thư với mức độ biểu hiện cao nhất trong mô não hứa hẹn trở thành một dấu ấn sinh học hữu hiệu có thể hỗ trợ trong chẩn đoán và điều trị. Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu mức độ biểu hiện của miR-125b trong huyết tương 62 bệnh nhân được chẩn đoán xác định là u thần kinh đệm và 62 người chứng khỏe mạnh.
Bệnh thiếu citrin là một rối loạn chuyển hóa di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường do đột biến gen SLC25A13 gây ảnh hưởng đến nhiều quá trình chuyển hóa chất như đường phân, tổng hợp glucose, chuyển hóa acid amin, chu trình urê và chuyển hóa lipid. Phân tích khối phổ đôi (MS/MS) là một công cụ tốt để sàng lọc trẻ sơ sinh trong đó bệnh thiếu citrin, tuy nhiên độ nhạy và độ đặc hiệu của sàng lọc MS/MS không cao và có thể gặp nhiều trường hợp âm tính giả, dương tính giả. Sàng lọc sơ sinh và sàng lọc nguy cơ cao bằng phương pháp MS/MS được thực hiện tại Bệnh viện Nhi Trung ương từ năm 2018 cho thấy tỷ lệ trẻ có kết quả sàng lọc nghi ngờ bệnh thiếu citrin tương đối cao, đặc biệt là ở nhóm từ 0 - 6 tháng. Nghiên cứu hồi cứu số liệu từ tháng 01/2018 đến tháng 05/2024 nhằm đánh giá giá trị của phương pháp MS/MS trong sàng lọc bệnh thiếu citrin ở nhóm từ 0 - 6 tháng.
Hội chứng Stevens-Johnson (SJS) và hoại tử thượng bì nhiễm độc (TEN) là những phản ứng nặng, thường do thuốc, có biểu hiện ở da, niêm mạc. Một số yếu tố về gen và miễn dịch được cho là có liên quan tới SJS/TEN, trong đó có interleukin-15. Trong nghiên cứu này, kỹ thuật hấp phụ miễn dịch vi hạt đánh dấu huỳnh quang (fluorescence covalent microbead immunosorbent assay, ProcartaPlex Immunoassay Panels kit, Thermo Fisher Scientific, USA) được sử dụng để xác định nồng độ interleukin-15 trong huyết thanh của các bệnh nhân SJS/TEN và phân tích mối tương quan của nó với mức độ bệnh. Sử dụng Mann-Whitney U test để so sánh nồng độ huyết thanh interleukin-15 của hai nhóm, Spearman rank correlation test để đánh giá sự tương quan. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p-value < 0,05.
Lão hóa là một quá trình sinh học tất yếu ở mọi sinh vật sống. Trong những năm gần đây, các phương pháp chống lão hóa đã nhanh chóng phát triển để đáp ứng nhu cầu làm đẹp, tế bào gốc và các dẫn xuất của chúng đã trở thành một xu hướng tiềm năng trong lĩnh vực này. Tế bào gốc tiết ra các yếu tố tăng trưởng, cytokine, chemokine, yếu tố tạo mạch, peptide kháng khuẩn... đã được chứng minh là có tác động tích cực đến quá trình lão hóa da. Trong bài đánh giá này, chúng tôi tóm tắt cơ chế của các chất tiết từ tế bào gốc trong việc ngăn ngừa lão hóa da, phân lập và nuôi cấy tế bào gốc trung mô cũng như các quy trình chuẩn bị chất tiết. Ngoài ra, chúng tôi đề cập đến hiệu quả, hệ thống phân phối, khuyến nghị và triển vọng của các sản phẩm có nguồn gốc từ tế bào gốc. Tóm lại, so với các phương pháp điều trị chống lão hóa hiện có khác, chất tiết tế bào gốc có hiệu quả và tiềm năng vượt trội hơn. Tuy nhiên, việc sử dụng rộng rãi các sản phẩm này chưa được khuyến khích do thiếu các thử nghiệm lâm sàng trên người về tính an toàn và ổn định của chúng.
Bệnh lý ung thư là một trong các yếu tố nguy cơ của đột quỵ nhồi máu não, làm tăng gánh nặng bệnh tật, tỷ lệ tử vong cũng như di chứng tàn tật ở bệnh nhân nhồi máu não. Nghiên cứu quan sát mô tả được tiến hành trên 87 bệnh nhân nhồi máu não cấp kèm theo bệnh lý ung thư tại Trung tâm Đột quỵ Bạch Mai từ tháng 01 năm 2023 đến tháng 03 năm 2024 nhằm mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị của nhóm bệnh nhân này.
Nghiên cứu đánh giá tình trạng di căn hạch nách và đặc điểm hoá mô miễn dịch của 62 bệnh nhân ung thư vú thể vi nhú xâm nhập được phẫu thuật tại Bệnh viện K từ tháng 1/2018 đến tháng 12/2023. Độ tuổi trung bình của bệnh nhân trong nghiên cứu là 50,1 tuổi. Hầu hết bệnh nhân có kết quả trên siêu âm là BIRADS 4C và BIRADS 5 lần lượt là 37,1% và 46,8%. Bệnh nhân trong nghiên cứu có tỷ lệ di căn hạch nách là 72,6%, trong đó giai đoạn N1, N2 và N3 lần lượt là 40,3%; 22,6% và 9,7%. Tỷ lệ bệnh nhân có ER dương tính, PR dương tính, HER2/neu (+++) lần lượt là 87,1%; 74,2% và 29%. Bệnh nhân có tình trạng xâm nhập mạch bạch huyết chiếm tỷ lệ cao 56,5%. Các yếu tố có liên quan đến tình trạng di căn hạch nách bao gồm kích thước u, tình trạng xâm nhập mạch bạch huyết và thành phần vi nhú của khối u. Trong khi đó không có sự khác biệt về tỷ lệ di căn hạch nách giữa các nhóm phân tử. Ung thư vú thể vi nhú xâm nhập có những đặc điểm thể hiện mức độ ác tính cao, tình trạng di căn hạch nách thường xảy ra sớm và tỷ lệ dương tính với thụ thể nội tiết cao trong khi đó tỷ lệ bộc lộ HER2/neu thấp.