CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

  • Duyệt theo:
1 Những yếu tố tác động đến ý định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động trong giai đoạn dịch COVID-19 / Nguyễn Tấn Hải, Nguyễn Thị Thanh Trúc, Lê Thị Hồng Thúy, Lê Nhã Uyên // .- 2023 .- Vol 2 - 04(08) .- Tr. 76 - 97 .- 340
Dưới ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 vừa qua, tình trạng người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động ngày càng nhiều, điều này làm ảnh hưởng đến nguồn lực lao động và khả năng sản xuất, kinh doanh trong và sau đại dịch. Nghiên cứu hiện tại áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến ý định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng tất cả 4 nhân tố bao gồm: nhận thức về sự nguy hiểm của dịch COVID-19, thái độ của người lao động, chuẩn chủ quan và kiểm soát hành vi có tác động tích cực đến ý định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng người lao động có bệnh nền và người lao động có nhận thức pháp luật thấp có ý định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật cao hơn. Từ các kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả đã đề xuất một số kiến nghị và chính sách cho các cơ quan chức năng và các công ty, doanh nghiệp để góp phần giữ chân người lao động.
2 Hai bản tấu thư của Phúc Khang An và câu trả lời của Lê Quýnh ở Trung Hoa / Nguyễn Duy Chính // .- 2023 .- Vol 2 - 04(08) .- Tr. 98 - 119 .- 959
Để vô hiệu hóa các nhóm thân Lê muốn nổi lên chống lại triều đình Tây Sơn, Phúc Khang An (Tổng đốc Lưỡng Quảng) đã giả vờ mời họ sang Trung Hoa “bàn quốc sự” và mưu tính việc tiến quân sang An Nam lần thứ hai. Khi thành phần đầu não của lực lượng nhà Lê đến Quảng Tây, Phúc Khang An thông báo triều đình Tây Sơn đã được nhà Thanh công nhận và khuyên những bầy tôi nhà Lê hãy cắt tóc và đổi sang y phục nhà Thanh để được an tháp. Lê Quýnh thấy mình bị đánh lừa nên đã trả lời: “Đầu tôi có thể chặt nhưng tóc không thể cắt, da tôi có thể lột nhưng áo không thể đổi. Chúng tôi sống làm người An Nam, chết làm ma An Nam”.
3 Ảnh hưởng của lo âu trí tuệ nhân tạo đến ý định học tập trí tuệ nhân tạo của sinh viên khối ngành Kinh tế tại Hà Nội / Nguyễn Hồng Châu Linh, Nguyễn Thúy Quỳnh, Chu Thị Như Quỳnh // .- 2024 .- Số 5 - Tháng 5 .- Tr. 17-23 .- 370
Nghiên cứu tập trung khai thác các khía cạnh của trạng thái tâm lý lo âu trí tuệ nhân tạo hay lo âu AI (Arrtificial Intelligence Anxiety - AIA) và xác định mức độ ảnh hưởng của từng khía cạnh đối với ý định học tập AI của sinh viên khối ngành kinh tế tại Hà Nội. Các thành tố để lựa chọn phân tích lo âu AI bao gồm: Lo âu học tập AI; Lo âu cấu hình AI; Lo âu thay thế công việc; Mù kỹ thuật xã hội.
4 Sự kiện ngày 19 tháng 01 năm 1974 và bài học kinh nghiệm lịch sử về bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam trong bối cảnh hiện nay / Ngô Văn Minh // .- 2024 .- Số 1 (189) .- Tr. 82 - 91 .- 959
Bài viết nhằm điểm lại chuỗi sự kiện Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, từ việc nước này bành trướng trên bản đồ, lên tiếng tranh chấp chủ quyền đến lén lút chiếm đóng bất hợp pháp, cho tàu thuyền giả dạng đánh cá dò thám để khi có cơ hội thì sẵn sàng dùng vũ lực đánh chiếm. Nhìn nhận lại các sự kiện và mưu đồ của Trung Quốc, trong công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay chúng ta cần phải chủ động, bình tĩnh và ngăn ngừa nguy cơ xung đột trên biển từ sớm, từ xa, không để rơi vào tình huống bị động, bất ngờ; phải đặc biệt coi trọng vấn đề an ninh, chủ quyền biển đảo nhất là ở những thời điểm nhạy cảm, phức tạp và phải bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, lợi ích quốc gia dân tộc trên các vùng biển đảo của Tổ quốc bằng chính nội lực của đất nước kết hợp với tính chính nghĩa và sức mạnh của thời đại.
5 Việc công nhận chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam qua các ấn bản quốc tế tại Anh, Đức, Ấn Độ, Pháp, Bohemia, Nga, It alia, Tây Ban Nha ở thế kỷ XIX / Nguyễn Quang Trung Tiến // .- 2024 .- Số 1 (189) .- Tr. 55 - 81 .- 959
Từ quá trình xác lập chủ quyền lịch sử khai thác đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thời các chúa Nguyễn ở thế kỷ XVII thông qua hoạt động của các đội Hoàng Sa và Bắc Hải; đến năm 1816, vua Gia Long của vương triều Nguyễn tiến hành chiếm hữu chính thức về mặt nhà nước đối với quần đảo Hoàng Sa thông qua việc phái đội thủy quân của triều đình Huế đi cùng đội Hoàng Sa ra xem xét và xác lập chủ quyền của Việt Nam tại đó. Sự kiện tuyên bố chiếm hữu chính thức về mặt nhà nước của triều Nguyễn đối với quần đảo Hoàng Sa từ năm 1816 đã được cộng đồng quốc tế công nhận rộng rãi thông qua nhiều ấn bản tại các nước Anh, Đức, Ấn Độ, Pháp, Bohemia, Nga, Italia, Tây Ban Nha mà không có bất kỳ quốc gia liên quan nào lên tiếng phản đối trong suốt thế kỷ XIX. Đó là những cơ sở pháp lý quốc tế vững chắc góp phần phục vụ đắc lực cho công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa Trường Sa nói riêng, biển đảo của Việt Nam nói chung trong hiện tại.
6 Tạ biểu của vua Chiêu Thống sau khi được phong An Nam Quốc Vương / Nguyễn Duy Chính // .- 2024 .- Số 1 (189) .- Tr. 45 - 54 .- 959
Ngày 22 tháng Một năm Càn Long 53 (19/12/1788) Tôn Sĩ Nghị mang sắc ấn vào phong cho Lê Duy Kỳ làm An Nam quốc vương. Mười ngày sau, Mồng 2 tháng Chạp năm Càn Long 53 (28/12/1788), vua Chiêu Thống gửi tờ biểu đầu tiên lên Thanh đình tạ ơn vua Càn Long đã sai người đem quân sang giúp ông khôi phục kinh thành. Đây cũng là văn bản đầu tiên của Lê Duy Kỳ gửi sang Trung Hoa, có đóng dấu An Nam quốc vương mới được ban. Tuy sắc thư phong vương của vua Thanh và chiếc ấn bạc mạ vàng được gửi sang An Nam cùng lá thư tạ ơn của Lê Duy Kỳ không có giá trị gì trong lịch sử nhưng cũng là dấu tích một thời, có giá trị tài liệu tiên nguyên (primary source) nên bài viết bổ túc những phần bị bỏ trống trong một giai đoạn nhiễu nhương mà ít người để tâm đến.
7 Khái quát giáo dục thời Trần (thế kỷ XII -XIV) / Nguyễn Thị Phương Chi // .- 2024 .- Số 1 (189) .- Tr. 35 - 44 .- 959
Những nét chính về giáo dục thời Trần đại lược gồm những điểm sau: Sự biến đổi về khoa cử, nội dung giáo dục; Giáo dục Nho học ngày càng phát triển và chiếm ưu thế; Giáo dục thời Trần đã đào tạo được một đội ngũ trí thức Nho học có trình độ học vấn tham gia bộ máy quản lý nhà nước; Giáo dục đã tạo điều kiện cho chữ Nôm phát triển. Thông qua giáo dục và thi cử nhà nước đã tuyển chọn được đội ngũ quan lại tài giỏi phục vụ đất nước. Triều đình nhà Trần trọng dụng những người thực tài mà không kể đến đường xuất thân. Đây cũng là điểm đặc biệt của một triều đại từng đạt được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực, trong đó có giáo dục. Tuy nhiên, nội dung giáo dục thời kỳ đầu do thiếu tư liệu nên hạn chế việc làm rõ vấn đề này. Đến năm 1396, phép thi đã đủ văn tự bốn trường.
8 Trường quy thời Nguyễn và mấy vụ án lớn / Lê Nguyễn Lưu // .- 2024 .- Số 1 (189) .- Tr. 24 - 34 .- 959
Thời đại nào thì việc khoa cử cũng phải có phép tắc, định lệ nhưng ngày xưa, phép tắc, định lệ rất nghiêm ngặt, không phải ai muốn dự thi cũng được. Trường quy nói chung gồm tất cả những thể lệ áp dụng trong quá trình diễn ra thi cử, không chỉ dành cho thí sinh, mà cả quan trường cũng phải tuân theo, ai vi phạm sẽ bị kỷ luật, nặng nhẹ tùy mức độ. Dưới thời Nguyễn, mặc dù việc thi cử có những quy định chặt chẽ, nhưng vẫn có trường hợp vi phạm.
9 Về tên gọi “bánh chưng” ngày Tết / Võ Vinh Quang // .- 2024 .- Số 1 (189) .- Tr. 3 – 10 .- 959
Tết Nguyên đán (tết Cả) là một lễ hội đặc trưng gắn liền với truyền thống văn hóa của cư dân nông nghiệp Á Đông. Tại Việt Nam, tết Nguyên đán gắn liền câu chuyện “Bánh chưng - bánh giầy” với huyền tích Lang Liêu vào thời Hùng Vương thứ 6. Vậy, câu chuyện bánh chưng ấy thực tế như thế nào, hình dạng nguyên thủy ra sao, và có sự thay đổi gì trong quá trình ảnh hưởng, tiếp biến văn hóa bản địa với văn hóa Trung Quốc xưa nay. Những vấn đề đó được tác giả quan tâm tìm hiểu, và đóng góp đôi lời luận bàn, gợi mở trong bài viết, nhằm mục đích giải mã tên gọi “bánh chưng” cũng như các lớp văn hóa hòa trộn trong câu chuyện “Bánh chưng ngày Tết”.
10 Lễ hưng quốc khánh niệm ở Kinh Đô Huế dưới thời vua Bảo Đại (1933-1939) / Đỗ Minh Điền // .- 2024 .- Số 1 (189) .- Tr. 11 - 23 .- 959
Bài viết này tập trung khảo sát các kỳ lễ Hưng quốc Khánh niệm diễn ra từ năm 1933 đến 1939, thông qua khảo lược các nguồn tư liệu báo chí đương thời, qua đó phần nào tái hiện không khí sinh hoạt lễ nghi của một trong những lễ tiết được xác định quan trọng bậc nhất dưới thời nhà Nguyễn.