Bài báo nghiên cứu nhằm mục đích thiết lập công thức cho phép xác định một cách chính xác hơn mô men kháng nứt của tiết diện bê tông cốt thép hình chữ nhật có xét tới ứng xử phi tuyến của bê tông được đơn giản hóa dưới dạng biểu đồ ứng suất - biến dạng hai đoạn thẳng theo TCVN 5574 - 2018. Công thức thiết lập đã được kiểm chứng thực nghiệm với hầu hết các sai số nhỏ hơn 7%. Bài báo cũng tính toán mô men kháng nứt của tiết diện bê tông cốt thép ứng với các hàm lượng cốt thép khác nhau, kết quả tính toán chỉ ra rằng: (1) mô men kháng nứt tăng tuyến tính với hàm lượng cốt thép chịu kéo và hàm lượng cốt thép chịu nén; (2) hàm lượng cốt thép chịu kéo có ảnh hưởng lớn đến mô men kháng nứt trong khi ảnh hưởng của hàm lượng cốt thép chịu nén là không đáng kể; (3) phương pháp tính toán mô men kháng nứt trình bày trong TCVN 5574 - 2018 đánh giá thấp đáng kể mô men kháng nứt của tiết diện, đặc biệt trong trường hợp hàm lượng cốt thép chịu kéo lớn.
Các thí nghiệm trong nghiên cứu này sử dụng thiết bị xử lý bùn hoạt tính hiếu khí để nghiên cứu quá trình loại bỏ phenol và formaldehyde khỏi nước thải ở quy mô phòng thí nghiệm. Một mô-đun xử lý với bùn hoạt tính có thể tích 70 L, giai đoạn khởi động với thời gian lưu thủy lực là 10 giờ, giá trị pH trong khoảng 6,8-7, DO trong ngăn thiếu khí luôn nhỏ hơn 0,5 mg/L, trong ngăn hiếu khí trong khoảng giá trị 3,0 và 4,5 mg/L. Kết quả cho thấy bùn hoạt tính sau quá trình khởi động ở trạng thái ổn định với MLSS 2800 mg/L đến 3170 (mg/L), chỉ số thể tích bùn (SVI30) là 156,7 ml/g và bùn hoạt tính cho thấy khả năng lắng tốt. Phenol trong nước thải đầu vào dưới 200 mg/L, hiệu suất loại bỏ của thiết bị xử lý bùn hoạt tính rất tốt, hầu như toàn bộ phenol đều được loại bỏ khỏi nước thải. Khi xử lý nước thải bằng hỗn hợp phenol và formaldehyde, hiệu suất xử lý giảm khi tăng nồng độ chất ô nhiễm, ở nồng độ 300 mg/L formaldehyde và phenol, chỉ có 82,36% và 72,63% tương ứng được loại bỏ. Công nghệ sinh học với bùn hoạt tính có thể được sử dụng để xử lý phenol và formaldehyde trong nước thải công nghiệp.
Đánh giá khả năng chống cháy của các tấm bê tông cốt thép giản đơn theo Tiêu chuẩn ACI 216.1M- 14. Kết quả nghiên cứu cho thấy, việc xác định khả năng chống cháy theo phương pháp phân tích tuy phức tạp hơn phương pháp tra bảng nhưng cho kết quả tính phù hợp hơn với yêu cầu chịu lực của kết cấu. Ngược lại, phương pháp tra bảng tuy đơn giản nhưng cho kết quả tính quá bảo thủ.
Hiện nay, Việt Nam hiện không đủ nguồn cung cát tự nhiên phục vụ nhu cầu xây dựng ở một số địa phương. Do đó, việc nghiên cứu sử dụng cát nhân tạo để thay thế cát tự nhiên là một trong những giải pháp hiệu quả không những về kinh tế, kỹ thuật mà còn cả về môi trường sinh thái. Trong nghiên cứu này đã sử dụng bùn thải, cát nhân tạo và đá dăm được gia công từ đá thải trong quá trình khai thác quặng đồng Sin Quyền (Lào Cai) kết hợp với tro bay nhiệt điện Sơn Động (Bắc Giang) để chế tạo bê tông đầm lăn (BTĐL) (RCC) trong phòng thí nghiệm. Kết quả nghiên cứu cho thấy, với tỷ lệ sử dụng tro bay nhiệt điện và bùn thải khai thác quặng đồng dao động từ 10% đến 30% theo thể tích của xi măng có thể chế tạo được BTĐL với độ cứng 20 - 40 giây, các giá trị trung bình ở tuổi 28 ngày như: Cường độ chịu kéo uốn từ 3,08 - 3,58 MPa, cường độ nén 24,5 - 28,5 MPa, độ mài mòn đạt 0,300 - 0,334 g/cm2, mô-đun đàn hồi khi nén tĩnh từ 38,5 - 41,5 GPa. Từ đó, bài báo đánh giá rằng BTĐL trong nghiên cứu có thể sử dụng được cho tầng móng của mặt đường giao thông cấp cao.
Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu thực nghiệm ảnh hưởng của độ sạch bề mặt thép đến khả năng bám dính (cường độ kéo nhổ) của vật liệu cốt sợi cường độ cao (FRP) và thép trong sửa chữa gia cường kết cấu. Cấp độ sạch bề mặt đánh giá theo Tiêu chuẩn ISO 8501-1 và thực nghiệm theo Tiêu chuẩn ASTM D4541-02. Kết quả thực nghiệm làm cơ sở cho việc tính toán thiết kế, nghiệm thu thi công sửa chữa gia cường kết cấu thép.
Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu thực nghiệm trong phòng thí nghiệm nhằm đánh giá ảnh hưởng của tỷ lệ nước/xi măng (N/X), loại xi măng (Fico PCB40 - loại II và Insee PCB40 - loại II) và hàm lượng xi măng (200, 220, 250 kg/m3) đến cường độ nén của đất xi măng trộn sâu (Cement Deep Mixing - CDM). Các mẫu đất được thí nghiệm gồm 3 loại đất á cát, bùn sét và sét. Thí nghiệm nén nở hông được tiến hành ở tuổi 14 ngày và 28 ngày. Kết quả cho thấy, cường độ nén có xu hướng tăng khi hàm lượng xi măng tăng và phát triển nhanh trong giai đoạn đầu. Ở tuổi 14 ngày, cường độ nén đạt trung bình 75 - 85% so với tuổi 28 ngày. Kết quả của thí nghiệm là cơ sở để lựa chọn các loại thông số hợp lý tối ưu trong thi công công nghệ trộn sâu xi măng tại dự án, đảm bảo chất lượng và hiệu quả gia cố nền đất.
Bài báo đánh giá ứng dụng bê tông bọt trong công tác san lấp hố móng công trình xây dựng dân dụng, giải quyết vấn nạn thiếu hụt của các nguồn vật liệu tự nhiên (cát, đất). Bài báo đã phân tích các yếu tố kỹ thuật, môi trường, tính khả thi kỹ thuật của giải pháp. Một số thí nghiệm đã được thực hiện nhằm đánh giá thực tiễn, trong đó có cường độ cơ học, khối lượng riêng thể tích khô. Kết quả thực nghiệm cho thấy bê tông bọt thi công trên công trình thực tế sẽ có giảm sút về cường độ cơ học nhưng vẫn đảm bảo được mức cường độ cơ học tối thiểu của vật liệu san lấp. Kết quả thực nghiệm cho thấy tính khả thi và giá trị thực tiễn của nghiên cứu.
Bài báo tập trung xây dựng mô hình tính toán, phân tích, tối ưu công suất điện của bộ thu năng lượng áp điện kiểu xếp chồng được tích hợp trên hệ treo, trên cơ sở mô hình xe 1/4 với kích động mặt đường điều hòa. Kết quả nghiên cứu nhằm phục vụ công việc tính toán, thiết kế kỹ thuật hệ thống treo tích hợp hệ thu năng lượng áp điện theo hai yêu cầu cơ bản nêu trên và có thể mở rộng cho các hệ có tính chất tương tự.
Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu hiệu quả giảm co ngót của xi măng nhôm trong chế tạo vữa khô tự chảy có cường độ chịu nén sau 28 ngày là 70 MPa. Các vật liệu đều ở dạng bột mịn với tỷ lệ nhào trộn tương đương với các loại vữa khô được bán phổ biến trên thị trường. Tỷ lệ nước/bột là 0,13 và phụ gia siêu dẻo polycacboxylat với hàm lượng 0,25% so với chất kết dính. Kết quả thí nghiệm về độ chảy, cường độ nén, cường độ kéo uốn và co ngót cho thấy vữa nghiên cứu đạt yêu cầu của loại vữa tự chảy không co đóng bao.
Bài báo trình bày một phương pháp tiếp cận mới để chẩn đoán hư hỏng trong kết cấu thông qua việc áp dụng mô hình học sâu (Deep Learning - DL) kết hợp giữa khả năng trích xuất các đặc trưng của mạng nơ-ron tích chập một chiều (One Dimensional Convolutional Neural Network - 1DCNN) và khả năng xử lý dữ liệu chuỗi thời gian mạng bộ nhớ dài ngắn hạn (Long Short-Term Memory - LSTM). Mặc dù 1DCNN có ưu thế trong việc trích xuất các đặc trưng từ dữ liệu nhưng gặp hạn chế khi xử lý các mối quan hệ dài hạn trong chuỗi thời gian. LSTM lại thể hiện khả năng phân tích, học các quan hệ dài hạn, nhưng gặp khó khăn trong việc cân bằng các trọng số tính toán và tốc độ xử lý còn chậm. Để kiểm chứng hiệu quả của phương pháp đề xuất, nghiên cứu được thực hiện bằng cách sử dụng dữ liệu theo thời gian thu được từ hệ thống cảm biến gia tốc trên cầu giàn thép Chương Dương. Kết quả cho thấy hiệu quả của phương pháp đề xuất vượt trội hơn hai mô hình học sâu riêng lẻ - 1DCNN và LSTM, đạt độ chính xác lần lượt là 91,6%, 84,5% và 81,4% trên tập dữ liệu kiểm tra.