So sánh hiệu quả giảm đau của phương pháp gây tê ống cơ khép kết hợp với dexamethason tĩnh mạch so với morphin khoang dưới nhện, cũng như tác dụng không mong muốn của hai phương pháp. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, ngẫu nhiên có so sánh. Chín mươi hai bệnh nhân trên 18 tuổi, ASA I đến III, có chỉ định phẫu thuật nội soi khớp gối được phân bổ ngẫu nhiên vào hai nhóm. Tất cả bệnh nhân đều được gây tê tủy sống bằng bupivacain ưu trọng và fentanyl, truyền tĩnh mạch paracetamol 1 g mỗi 8 giờ sau phẫu thuật. Một nhóm được tiêm 100 mcg morphin vào khoang dưới nhện (nhóm M) và nhóm còn lại được gây tê ống cơ khép bằng levobupivacain 0,25% 20 mL và dexamethason 8 mg tiêm tĩnh mạch (nhóm S). Điểm số đau sau phẫu thuật khi nghỉ ngơi và vận động được đánh giá bằng thang điểm nhìn (VAS), tỷ lệ và thời điểm yêu cầu giải cứu đau đầu tiên, tác dụng không mong muốn, sự hài lòng của bệnh nhân, chất lượng hồi phục sau phẫu thuật cũng được đánh giá. Kết quả: Điểm VAS trung vị của cả hai nhóm đều nhỏ hơn hoặc bằng 3 tại các thời điểm nghiên cứu. Tỷ lệ yêu cầu giải cứu đau ở nhóm S (8,7%) và nhóm M (6,5%, p > 0,05). Thời gian trung bình đến khi yêu cầu lần giải cứu đầu tiên ở nhóm S (11,4 ± 3,5 giờ) và nhóm M (16,6 ± 2,6 giờ, p > 0,05). Có 39,1% bệnh bị buồn nôn và nôn, 37,0% bệnh nhân bị ngứa trong nhóm M, tỷ lệ này ở nhóm S không đáng kể lần lượt là 0% và 4,3%, p < 0,05. Tỷ lệ bí tiểu ở nhóm M và S lần lượt là 10,9% và 4,3%, p > 0,05. Không có trường hợp nào bị ức chế hô hấp ở cả hai nhóm. Mức độ hài lòng thấp hơn đáng kể ở nhóm M (34,8% rất hài lòng) khi so sánh với nhóm S (69,6% rất hài lòng, p < 0,05). Điểm QoR-15 ở nhóm S cao hơn nhóm M ở cả hai thời điểm 12 giờ và 24 giờ, p < 0,05. Kết luận: Cả hai phương pháp đều mang lại hiệu quả giảm đau tốt sau phẫu thuật nội soi khớp gối. Gây tê ống cơ khép kết hợp với dexamethason tĩnh mạch vượt trội hơn so với morphin khoang dưới nhện về tỷ lệ tác dụng không mong muốn, sự hài lòng của bệnh nhân và chất lượng hồi phục sau phẫu thuật.
Nghiên cứu nhằm mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân sỏi đường mật điều trị bằng phẫu thuật nội soi kết hợp tán sỏi điện thủy lực tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ 01/2022 đến 06/2023. Đối tượng và phương pháp: Đối tượng gồm 39 được chẩn đoán sỏi đường mật. Phương pháp nghiên cứu mô tả kết hợp hồi cứu và tiến cứu. Kết quả: Bệnh gặp ở người có tuổi trung bình là 57,33 ± 15,51 tuổi (nhỏ nhất 19 và lớn nhất 82 tuổi), nhóm 60-79 tuổi chiếm tỷ lệ 41,0%, giới nữ chiếm tỷ lệ 59%, tỷ lệ nam/nữ: là 0,7/1. Đau hạ sườn phải gặp ở 100 % trường hợp, sốt gặp ở 35,9% trường hợp, vàng da gặp ở 30,8% trường hợp và tam chứng C-harcot gặp ở 30,8% trường hợp. Bạch cầu tăng ở 35,9% trường hợp, Neutrophil tăng ở 38,5% trường hợp. Billirubin toàn phần tăng ở 53,85% trường hợp, men SGOT tăng ở 64,1% trường hợp, SGPT tăng ở 66,7% trường hợp. Kích thước ống mật chủ trên siêu âm và CLVT/CHT tương đương nhau. Kết luận. Sỏi đường mật gặp nhiều ở nữ, lứa tuổi 60-79 tuổi. Lâm sàng gồm đau hạ sườn, sốt và vàng da. Xét nghiệm thấy tăng bạch cầu, enzym gan và bilirubin toàn phần.
Bài viết này phân tích mối quan hệ giữa sự hợp tác với khách hàng trong quản trị chuỗi cung ứng và kết quả hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất. Dữ liệu được thu thập từ 304 doanh nghiệp sản xuất từ 13 quốc gia trên thế giới trong khuôn khổ Dự án Sản xuất Hiệu suất cao (HPM) trong giai đoạn 2013-2015. Kết quả của phân tích thống kê mô tả, phân tích tương quan và phân tích hồi quy chỉ ra rằng hợp tác với khách hàng trong quản trị chuỗi cung ứng có mối quan hệ tích cực với các kết quả sản xuất bao gồm chất lượng, chi phí, giao hàng. Nghiên cứu cũng đưa ra một số gợi ý cho các nhà nghiên cứu và quản trị doanh nghiệp trong việc xây dựng và áp dụng một hệ thống thang đo đánh giá việc hợp tác với khách hàng nhằm nâng cao hiệu quả quản trị chuỗi cung ứng.
Thị trường chứng khoán (TTCK) phái sinh Việt Nam đã chính thức ra đời và đi vào hoạt động, đánh dấu một bước phát triển mới của TTCK Việt Nam. Sự ra đời của TTCK phái sinh là một bước hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam theo thông lệ quốc tế, giúp các nhà đầu tư phòng ngừa rủi ro, đa dạng hóa sản phẩm đầu tư, từ đó làm tăng sự hấp dẫn và cơ hội đầu tư trên TTCK.Trong giai đoạn đầu hoạt động, bên cạnh những kết quả đạt được đáng ghi nhận, thị trường cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, thách thức của quá trình phát triển. Bài viết xem xét các điều kiện cần thiết cho TTCK phái sinh ra đời, để khẳng định thời điểm ra đời của TTCK phái Sinh Việt Nam là phù hợp, đánh giá thực trạng kết quả vận hành thị trường, nhận diện những vấn đề nảy sinh và đề xuất các giải pháp đồng bộ nhằm phát triển bền vững TTCK phái sinh Việt Namtrong tương lai.
Bài viết tập trung phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc triển khai hệ thống thông tin kế toán. Kết quả phân tích định lượng cho thấy: đặc điểm hệ thống, vai trò của nhà quản lý, môi trường doanh nghiệp có tác động trực tiếp đến việc triển khai hệ thống thông tin kế toán. Trong đó vai trò của nhà quản lý đóng vai trò quan trọng quyết định mức độ triển khai thành công của hệ thống.
Trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh, một ngân hàng thương mại kinh doanh định hướng thị trường, chỉ làm marketing với khách hàng bên ngoài (marketing đối ngoại) là hoàn toàn chưa đủ. Bên cạnh marketing đối ngoại, ngân hàng thương mại rất cần áp dụng một loại hình marketing khác - marketing nội bộ. Chỉ khi kết hợp với marketing nội bộ, marketing đối ngoại mới đạt được hiệu quả tối đa và bền vững. Trên thực tế, phần lớn các ngân hàng thương mại Việt Nam hầu như chưa làm marketing nội bộ hoặc làm một cách không chính thức. Chất lượng và sự phát huy tác dụng của marketing nội bộ đang còn rất hạn chế. Đó là lý do bài báo này được hoàn thành. Bài báo đã phác họa những nét đặc trưng, đặc thù của marketing nội bộ trong lĩnh vực ngân hàng; đã chỉ ra những yếu kém, hạn chế cơ bản của marketing nội bộ trong các ngân hàng thương mại Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề xuất những kiến nghị hoàn thiện và đổi mới cách thức làm marketing nội bộ hướng tới sự chuyên nghiệp, bài bản, đúng cách và đạt hiệu quả cao tại các ngân hàng này.
Bài báo đề xuất mô hình hệ thống giao dịch có áp dụng kỹ thuật của trí tuệ nhân tạo, và thực nghiệm dự báo xu hướng với cặp tỷ giá USD/VND. Hệ thống giao dịch áp dụng kỹ thuật trí tuệ nhân tạo này được đề xuất nhằm mục đích trợ giúp việc ra các quyết định tốt hơn trong các giao dịch của các nhà đầu tư trên thị trường giao dịch ngoại hối.
Với sự phát triển nhanh chóng các ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong kinh doanh ngân hàng, hầu hết ngân hàng thương mại (NHTM) trên thế giới và ở Việt Nam đều có những bước tiến dài đối với hoạt động cung cấp và phát triển thị trường dịch vụ ngân hàng điện tử (NHĐT). Điều này một mặt, cho phép NHTM tạo ra ưu thế vượt trội và các tiện ích mới trong cung cấp dịch vụ tài chính. Mặt khác,mở ra nhiều cơ hội mới trong việc tiếp cận với số lượng lớn khách hàng tiềm năng, chiếm lĩnh thị phần dịch vụ NHĐT và bán chéo sản phẩm dịch vụ. Tại Việt Nam hiện nay, các sản phẩm dịch vụ NHĐT được cung cấp đã rất đa dạng và phong phú về loại hình, tuy nhiên số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ NHĐT vẫn còn quá ít, giá trị giao dịch còn quá nhỏ so với tiềm năng thị trường và khách hàng hiện tại của các NHTM cũng như chưa tương xứng với những nỗ lực đầu tư của các NHTM. Đây là thực tế cấp bách đang được các NHTM Việt Nam đặt vấn đề quan tâm hàng đầu, đòi hỏi phải được giải quyết trong bối cảnh hiện nay và sắp tới. Bài viết của tác giả đã đưa ra mô hình nghiên cứu mối quan hệ của các thành tố chất lượng dịch vụ NHĐT của các NHTM Việt Nam và sự hài lòng của khách hàng sử dụng, tạo cơ sở khoa học cho các NHTM Việt Nam trong việc nhìn nhận lại chất lượng dịch vụ NHĐT cung cấp và đánh giá chính xác sự hài lòng của khách hàng. Thông qua đó, các NHTM Việt Nam có thể cải thiện dịch vụ NHĐT, gia tăng sự hài lòng của khách hàng, tạo lập các khách hàng trung thành và thu hút thêm khách hàng tiềm năng cho các dịch vụ NHĐT.
Tại Việt Nam hiện nay, trong khi khối lượng rác thải rắn phát sinh trên cả nước ước khoảng 28 triệu tấn/năm với tốc độ tăng 10%/năm, tỷ lệ thu gom đạt khoảng 83 - 85% ở khu vực đô thị và 40 - 50% ở khu vực nông thôn thì tỷ lệ tái chế, tái sử dụng rất thấp, chỉ đạt khoảng 10 - 12%. Thực trạng này xuất phát chủ yếu từ nguyên nhân, đó là Việt Nam chưa tổ chức được một hệ thống logistics ngược hiệu quả để thu hồi, tái chế, tái sử dụng các sản phẩm loại bỏ và chất thải từ quá trình sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Do đó, bài viết này tập trung vào việc phân tích kinh nghiệm tổ chức hệ thống logistics ngược tại một số quốc gia trên thế giới; từ đó rút ra bài học cho Việt Nam.
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định các nhóm yếu tố cơ bản tác động đến tổng thu nhập (lương, thưởng) Ban điều hành hay Ban giám đốc (BOE). Trên cơ sở khảo sát các khung lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm liên quan, các yếu tố này bao gồm: Quy mô hội đồng quản trị (HĐQT), Quy mô doanh nghiệp, Tăng trưởng, Hiệu quả hoạt động. Mô hình nghiên cứu được thực hiện thông qua việc phân tích khảo sát 40 công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE) với 200 quan sát giai đoạn 2009 - 2014. Bằng phương pháp ảnh hưởng ngẫu nhiên, kết quả thực nghiệm cho thấy: Quy mô công ty và quy mô HĐQT là hai yếu tố có tác động tích cực và đáng kể đến thu nhập ban điều hành của các công ty niêm yết trong diện nghiên cứu. Trong khi đó, hiệu quả công ty có tác động yếu đến thu nhập ban điều hành, còn yếu tố tăng trưởng công ty dựa trên sự chênh lệch giá trị thị trường và giá trị sổ sách mặc dù được kỳ vọng là yếu tố quan trọng tác động tới thu nhập ban điều hành thì lại không có ý nghĩa thống kê.