Xác định tỉ lệ hở kẽ răng cửa giữa hàm trên người Việt trưởng thành; (2) Mối liên quan giữa tình trạng hở kẽ răng cửa giữa hàm trên và đặc điểm thắng môi trên. Nghiên cứu cắt ngang mô tả khảo sát sinh viên năm thứ nhất Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh ghi nhận khe hở hơn 0,5 mm giữa hai răng cửa giữa trên bằng cách dùng thước giấy. Tất cả sinh viên cũng được khám đánh giá vi trí thắng môi trên theo phân loại Mirko (1974) và hình dạng thắng theo phân loại Sewerin (1971). Sử dụng bảng câu hỏi để khảo sát cảm nhận thẩm mỹ, chức năng và nhu cầu điều trị đối với sinh viên có hở kẽ. Kết quả: Qua khám đánh giá 1.597 sinh viên gồm 962 nữ (60,2%) và 635 nam (39,8%) ghi nhận có 92 người có tình trạng hở kẽ giữa (5,76%). Trong đó có 29 nam (31,52%) và 63 nữ (68,49%), không có sự khác biệt giới tính về tình trạng hở kẽ giữa. Có khác biệt có ý nghĩa về vị trí thắng môi giữa nhóm có và không có hở kẽ giữa (p <0,01), những người có vị trí thắng môi bám thấp có tỉ lệ hở kẽ giữa cao hơn so với người có vị trí bám bình thường. Khả năng có khe hở giữa hai răng cửa hàm trên cao gấp 9,81 lần ở nhóm thắng môi trên bám bất thường so với nhóm có vị trí bám bình thường (OR=9,81. 95%CI=5,21-18,7). Kết luận: Tỉ lệ khe hở kẽ giữa trong mẫu nghiên cứu là 5,76%. Có mối liên quan giữa khe hở giữa hai răng cửa với vị trí bám của thắng môi trên.
Suy dinh dưỡng (SDD) là tình trạng gặp phổ biến ở người bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) và có ảnh hưởng xấu đến tiến triển, nguy cơ đợt cấp và tiên lượng. Đánh giá và can thiệp kịp thời về dinh dưỡng giúp nâng cao hiệu quả quản lý người bệnh. SDD gặp với tỷ lệ cao ở người BPTNMT, đặc biệt ở nhóm D. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng dựa vào chỉ số BMI, SGA, MNA là phương pháp không xâm lấn, dễ thực hiện và có tính chính xác cao. Mối liên hệ chặt chẽ giữa tình trạng SDD và nguy cơ của bệnh cho thấy tầm quan trọng của việc sàng lọc và can thiệp dinh dưỡng sớm trong việc quản lý BPTNMT.
Do bản chất không đồng nhất và không ngừng tiến hóa của HIV, các biện pháp điều trị, dự phòng và phát triển vắc-xin đòi hỏi phải có hiểu biết cập nhật về sự phân bố của các subtype HIV trong quần thể. Các nghiên cứu trước đây chưa phân tích sự phân bố subtype HIV-1 tại Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Đối tượng, phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện dựa trên việc phân tích dữ liệu của các bệnh nhân nhiễm HIV-1 trên cơ sở dữ liệu trình tự HIV của Phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos. Dữ liệu được chọn lọc dựa trên những tiêu chí cụ thể và tiến hành phân tích phân bố subtype HIV-1 tại khu vực Đông Nam Á và Việt Nam. Kết quả: Thông qua việc phân tích 6.603 dữ liệu của khu vực Đông Nam Á, CRF01_AE (5.679/6.603 – 86%) chiếm tỷ lệ cao nhất, sau đó là subtype B (426/6.603 – 6,5%) và CRF33_01B (98/6.603 – 1,5%). Subtype CRF33_01B chỉ xuất hiện tại Malaysia (98%) và Indonesia (2%). Tại Việt Nam, CRF01_AE chiếm tỷ lệ trên 97% qua các giai đoạn. Trong giai đoạn 2012- 2021, có sự xuất hiện của các subtype CRF mới: CRF07_BC (0,1%), CRF109_0107 (0,4%) và CRF127_07109 (0,4%). Kết luận: Nghiên cứu cho thấy sự đa dạng của HIV-1 theo khu vực Đông Nam Á và Việt Nam. Subtype CRF01_AE chiếm tỷ lệ cao nhưng một số quốc gia có sự xuất hiện và phổ biến của các chủng CRF khác. Vì vậy, việc tiếp tục giám sát dịch tễ học của HIV-1 là rất quan trọng đối với việc thiết kế, thử nghiệm và triển khai vắc-xin phòng ngừa.
Nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát phương pháp và kết quả điều trị bệnh tăng huyết áp tại Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, hồi cứu trên 454 bệnh án chẩn đoán tăng huyết áp, từ 1/2022 đến 12/2022 tại khoa Lão – Bệnh viện Y học cổ truyền Trung Ương. Kết quả: 81,5% bệnh nhân được điều trị Y học hiện đại kết hợp Y học cổ truyền. Bệnh nhân phần lớn được điều trị 1 loại thuốc hạ huyết áp (51,3%). Thuốc chẹn kênh canxi là thuốc hạ áp được sử dụng nhiều nhất (45,8%). 94,7% bệnh nhân được sử dụng thuốc cổ truyền trong đó thuốc thang sử dụng nhiều nhất với 91,9%; dạng hoàn là 21,8%; chè hạ áp chiếm 7,0% và 5,1% bệnh nhân được kết hợp phương pháp không dùng thuốc. 89% bệnh nhân tăng huyết áp đạt mục tiêu điều trị. Kết luận: Phương pháp Y học hiện đại kết hợp Y học cổ truyền điều trị tăng huyết áp đã cải thiện triệu chứng, chỉ số huyết áp và đạt kết quả điều trị tốt. Tuy nhiên, cần phối hợp thuốc hạ huyết áp ngay từ đầu và tăng cường bào chế và sử dụng chế phẩm thuốc cổ truyền và phương pháp không dùng thuốc để tăng hiệu quả điều trị
Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của 135 bệnh nhân ung thư hắc tố da tại Bệnh viện K. Phương pháp: Bệnh nhân ung thư hắc tố da, có u nguyên phát, được chẩn đoán và điều trị bằng phẫu thuật triệt căn tại Bệnh viện K. Thiết kế nghiên cứu mô tả tiến cứu. Kết quả: Bệnh hay gặp 40 đến 60 tuổi, nữ/nam = 1,01, làm ruộng chiếm đa số 56,4%, thời gian mắc bệnh trên 6 tháng 66,2%, ung thư phát triển trên nền nốt ruồi 34,1%. Vị trí u chi dưới 49,6%, trong đó u ở gan bàn chân 35,5%, ung thư phát triển trên nền da sừng hóa 43,0%, đau chói tại u 43,7%, đen loang lổ 65,9%. Thể lan tràn nông 52,6%, Clark V 46,7%, giai đoạn thẳng đứng 72,6%. Tỷ lệ nhân chia > 6 nhân chia/1 mm2 38,5%. Nhân vệ tinh 34,8%, loét u 48,1%, tế bào lympho xâm nhập thưa 46,7%, u xâm nhập mạch 77,8%. Di căn hạch khu vực 48,1%, di căn hạch trung gian 5,9%, xếp pT3 là 41,5% và pT4 là 54,8%, xếp pN0 51,9%, giai đoạn II, III là 51,9% và 48,1%. Kết luận: Nữ/nam = 1,01. Đặc điểm lâm sàng hay gặp: khoảng tuổi từ 40 đến 60, nông dân làm ruộng, thời gian mắc bệnh trên 6 tháng, trên nền da là nốt ruồi và da sừng hóa, ở chi dưới đặc biệt ở gan bàn chân, đau chói tại u, màu sắc đen loang lổ, di căn hạch khu vực. Mô bệnh học hay gặp: thể lan tràn nông, độ dầy u cao, mức độ xâm lấn Clark cao, giai đoạn phát triển thẳng đứng, tỷ lệ phân bào cao, u xâm nhập mạch và loét u.
Nhiễm khuẩn tiết niệu là bệnh lý phổ biến với khả năng tái phát cao. Tình trạng lây nhiễm các chủng vi khuẩn kháng thuốc gây giảm hiệu quả điều trị và tăng gánh nặng về chi phí. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang nhằm xác định các vi khuẩn thường gặp và mức độ kháng kháng sinh của chúng trong mẫu cấy nước tiểu tại Bệnh viện E. Kết quả: E. coli là tác nhân hàng đầu gây nhiễm khuẩn tiết niệu với tỉ lệ 30,9%. Tiếp sau là P. aeruginosa, K. pneumoniae, E. faecium và E. faecalis với tỉ lệ lần lượt là 14%, 10%, 8,1% và 4,3%. E. coli kháng cao nhất với trimethoprim/sulfamethoxazole (100%), nhạy cảm cao nhất với ertapenem (98,2%). Tỉ lệ E. coli sinh ESBL là 54,6%. K. pneumoniae kháng cao nhất với trimethoprim/sulfamethoxazole (100%); nhạy cảm cao nhất với amikacin (68,5%). Tỉ lệ K. pneumoniae sinh ESBL là 22,4%. P. aeruginosa kháng cao nhất với levofloxacin (92,6%) và nhạy cảm nhất với piperacillin/tazobactam (41,2%). E. faecium kháng hoàn toàn với penicillin; ampicillin; và ciprofloxacin. Tỉ lệ E. faecium kháng vancomycin là 11,1% và chưa thấy xuất hiện chủng kháng linezolid. E. faecalis kháng cao nhất với tetracycline (91,4%); 100% số chủng còn nhạy cảm với linezolid và vancomycin. Kết luận: Các vi khuẩn gây nhiễm khuẩn tiết niệu hàng đầu là E. coli; P. aeruginosa; K. pneumoniae; E. faecium và E. faecalis đã kháng lại hầu hết các kháng sinh thử nghiệm với mức độ đề kháng khác nhau.
Khảo sát kiến thức về rối loạn phổ tự kỷ và thái độ, rào cản tiếp cận dịch vụ chẩn đoán rối loạn phổ tự kỷ ở người chăm sóc trẻ tự kỷ. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Kết quả: 150 người chăm sóc trẻ mắc rối loạn phổ tự kỷ được đưa vào nghiên cứu. Kết quả có 73,3% người chăm sóc trẻ đã từng được tiếp cận kiến thức về rối loạn phổ tự kỷ nhưng hầu hết tổng điểm kiến thức ở mức trung bình và dưới trung bình (62,8% và 31,8%). Nguồn tiếp cận kiến thức chủ yếu từ Internet (89,1%), trong khi nguồn từ nhân viên y tế (12,7%) và trường học (9,1%) còn thấp. Kiến thức tốt hơn ở nhóm người chăm sóc có trình độ từ trung cấp trở lên, nhóm có nghề nghiệp là cán bộ viên chức và nhóm sống ở khu vực thành thị (p < 0,05). Có 84,7% người chăm sóc đã có thái độ trì hoãn không cho trẻ đi khám ngay khi phát hiện dấu hiệu bất thường. Khi phát hiện trẻ có bất thường về phát triển 49,4% người chăm sóc đưa trẻ đi khám tại các phòng khám nhi, chỉ 18,1% trẻ được khám tại phòng khám chuyên khoa tâm thần. Rào cản tiếp cận chẩn đoán chủ yếu do còn thiếu kiến thức và nhận thức: Có 66,3% người chăm sóc cho rằng những bất thường mà họ thấy ở trẻ không phải là bệnh nên không cần đi khám, 87,3% người chăm sóc muốn chờ đợi thêm, 44% bị ảnh hưởng bởi ý kiến gia đình; 8,7% từng khám nhưng được bác sĩ kết luận trẻ bình thường hoặc mắc bệnh khác dẫn đến chủ quan. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy phần lớn người chăm sóc vẫn chưa có đủ kiến thức và thái độ chủ động trong việc đưa trẻ đi khám dẫn tới những rào cản tiếp cận chẩn đoán do thiếu hiểu biết. Do đó, việc tăng cường truyền thông, nâng cao kiến thức về rối loạn phát triển cho cộng động là vô cùng quan trọng giúp cải thiện khả năng phát hiện và can thiệp sớm cho trẻ mắc rối loạn phổ tự kỷ.
Đây là nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 33 bệnh nhân được chẩn đoán hồng ban đa dạng (erythema multiforme-EM) có thương tổn da lan tỏa tại Bệnh viện Da liễu Trung ương từ tháng 4 năm 2017 tới tháng 8 năm 2019 nhằm khảo sát nồng độ huyết thanh một số cytokine. Sử dụng kỹ thuật hấp phụ miễn dịch vi hạt đánh dấu huỳnh quang (fluorescence covalent microbead immunosorbent assay) phát hiện đồng thời nhiều cytokine: yếu tố kích thích dòng tế bào hạt-đại thực bào (granulocyte-macrophage colony-stimulating factor, GM-CSF), interleukin(IL)-10 và IL-12 và IL-17A. Kết quả cho thấy tuổi trung bình của các bệnh nhân EM có thương tổn lan tỏa là 42,2. Có 22 bệnh nhân (66,7%) có thời gian bị bệnh dưới 1 tuần. Có 60,6% bệnh nhân có tiền sử dùng thuốc trước khi bị bệnh. Chỉ có 15,2% bệnh nhân có thương tổn niêm mạc. Ở nhóm EM, nồng độ huyết thanh GM-CSF, IL-12 và IL-17A lần lượt là 5,43±13,22 pg/ml; 0,92±2,19 pg/ml và 0,28±0,29 pg/ml; thấp hơn so với nhóm khỏe mạnh, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001 hay p<0,01. Nồng độ huyết thanh GM-CSF, IL-12 và IL- 17A ở nhóm khỏe mạnh lần lượt là 31,99±31,64 pg/ml; 5,47±4,5 pg/ml và 1,46±2,18 pg/ml. Nồng độ huyết thanh IL-10 của nhóm EM là 9,86±15,29 pg/ml, không khác biệt so với nhóm khỏe mạnh (11,84±11,09 pg/ml). Không có mối tương quan giữa nồng độ huyết thanh các cytokine với tuổi của các bệnh nhân EM.
Nghiên cứu nhằm mô tả thực trạng bệnh viêm lợi của bệnh nhân sau xạ trị ung thư đầu cổ tại bệnh viện K năm 2023-2024. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 156 bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên, đã xạ trị ung thư đầu cổ từ tháng 02 năm 2023 đến tháng 9 năm 2024. Các bệnh nhân được thăm khám, đánh giá tình trạng viêm lợi sau điều trị tia xạ 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng và trên 3 tháng. Kết quả: Tỷ lệ viêm lợi là 82,1% trong đó tỷ lệ viêm lợi ở nhóm 35-59 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (86,0%) và tỷ lệ viêm lợi ở nam giới (86,1%) cao hơn nữ giới (70,7%). Tỷ lệ viêm lợi sau 1 tháng xạ trị là 91,4% và giảm dần sau 2, 3 tháng xạ trị, sau 3 tháng xạ trị tỷ lệ viêm lợi tăng nhẹ. Kết luận: Sau 1, 2 và 3 tháng xạ trị, bệnh nhân ung thư đầu cổ có tỷ lệ bệnh viêm lợi ở mức cao nhưng có xu hướng giảm dần, tuy nhiên từ sau 3 tháng xạ trị tỷ lệ bệnh tăng nhẹ trở lại. Cần tiến hành thêm các nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn để đánh giá được chính xác hơn tỷ lệ và sự thay đổi của bệnh trên nhóm bệnh nhân này.
Tổng quan các bằng chứng về hiệu quả và an toàn của kích thích từ xuyên sọ lặp lại (rTMS) trong phục hồi vận động sau đột quỵ giai đoạn 2015 – 2025. Phương pháp: Tổng quan phạm vi theo hướng dẫn PRISMA-ScR; tìm kiếm PubMed, Google Scholar và các tạp chí y học Việt Nam (tiếng Anh – tiếng Việt) trong khung thời gian 2015 – 2025 với các từ khóa “repetitive transcranial magnetic stimulation”, “rTMS”, “stroke”, “motor recovery”; chọn các nghiên cứu gốc (RCT, quan sát) và tổng quan hệ thống liên quan đến phục hồi vận động sau đột quỵ. Kết quả: Tổng cộng 30 nghiên cứu đáp ứng tiêu chí (27 RCT, 3 nghiên cứu quan sát, 12 tổng quan/meta-analysis). Phần lớn can thiệp dùng rTMS tần số thấp 1 Hz lên bán cầu lành hoặc tần số cao 5–10 Hz/ iTBS lên bán cầu tổn thương, kết hợp phục hồi chức năng chuẩn. So với chứng/sham, rTMS giúp tăng điểm Fugl-Meyer chi trên trung bình ≈5 điểm, cải thiện sức cơ và khả năng sinh hoạt hằng ngày; hiệu quả rõ nhất trong ≤6 tháng đầu và ở bệnh nhân liệt nặng. Không ghi nhận biến cố nghiêm trọng liên quan rTMS; các tác dụng phụ nhẹ (đau đầu, khó chịu da đầu) thoáng qua. Kết luận: rTMS là biện pháp bổ trợ an toàn, tiềm năng giúp tăng tốc và tăng mức độ phục hồi vận động sau đột quỵ, đặc biệt khi áp dụng sớm cùng chương trình tập luyện. Cần thêm RCT đa trung tâm quy mô lớn và nghiên cứu cơ chế để chuẩn hóa giao thức và tối ưu hóa lựa chọn bệnh nhân, đồng thời khuyến khích nghiên cứu tại Việt Nam để khẳng định giá trị thực hành.