CSDL Bài trích Báo - Tạp chí
1 Nghiên cứu tác động của chiêu thị đến giá trị thương hiệu hàng tiêu dùng tại thành phố Hồ Chí Minh / Lê Đăng lăng, Võ Thị Hồng Hoa, Trần Thị Yến,… // Đại học Thủ Dầu Một .- 2012 .- Số 4 (6)/2012 .- Tr. 31-43. .- 658
Khám phá và kiểm định sự tác động của một số yếu tố chiêu thị đến giá trị thương hiệu hàng tiêu dùng nhanh. Đầu tiên, kỹ thuật thảo luận nhóm được sử dụng đề xây dựng các thang đo nghiên cứu. Tiếp đến, kỹ thuật phỏng vấn trực tiếp bằng bảng câu hỏi để thu thập dữ liệu nhằm kiểm định các thang đo thông qua độ tin cậy Cronbach Alpha và giá trị EFA, giả thuyết nghiên cứu được kiểm định bởi mô hình hồi quy bội MLR. Kết quả nghiên cứu khẳng định giá trị thương hiệu hàng tiêu dùng được đo lường bằng các thành phần: nhận biết thương hiệu, chất lượng cảm nhận, liên tưởng thương hiệu và trung thành thương hiệu; đồng thời quảng cáo và khuyến mãi đều có tác động làm tăng giá trị thương hiệu tổng thể, nhưng sự tác động đến thành phần của giá trị thương hiệu lại rất khác nhau.
2 Phân tích thực trạng tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững trên địa bàn tỉnh Bình Dương / Trịnh Hoàng Hồng Huệ // Đại học Thủ Dầu Một .- 2012 .- Số 4 (6)/2012 .- Tr. 53-61. .- 330
Trình bày kết quả nghiên cứu, phân tích và đánh giá chung về vấn đề tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững của tỉnh Bình Dương từ khi tái lập tỉnh đến nay xét trên góc độ các yếu tố kinh tế; tăng trưởng gắn với công bằng và tiến bộ xã hội; tăng trưởng gắn với bảo vệ môi trường sinh thái và tài nguyên thiên nhiên qua một số tiêu chí cụ thể sau: tốc độ tăng trưởng, hiệu quả kinh tế, cơ cấu kinh tế, năng lực cạnh tranh và các vấn đề môi trường sinh thái – công bằng xã hội.
3 Giá trị Nhật Bản – Một góc nhìn / Ngô Văn Lệ // Đại học Thủ Dầu Một .- 2012 .- Số 4 (6)/2012 .- Tr. 69-75. .- 327
Đi tìm giá trị Nhật Bản, dựa vào hai giai đoạn được xem là quan rọng nhất đối với sự phát triển của Nhật Bản ở thời cận – hiện đại lịch sử Nhật Bản. Ở giai đoạn Minh Trị Duy Tân giá trị Nhật bản được thể hiện ở chỗ là mạnh dạn trút bỏ những gì không còn phù hợp cho sự phát triển của đất nước hướng tới một cuộc cải cách. Trên con đường tiến hóa chung của lịch sử nhân loại, Nhật Bản đã tìm cho mình một con đường đi riêng dựa vào những đặc thù của lịch sử và điều kiện tự nhiên, tạo bước đột phá làm nên một kì tích, mà không phải tộc người nào trong bối cảnh như vậy có thể làm được.
4 Mấy vấn đề về xã hội hóa giáo dục từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh / Nguyễn Gia Kiệm // Đại học Thủ Dầu Một .- 2012 .- Số 4 (6)/2012 .- Tr. 93-97. .- 370
Xã hội hóa giáo dục là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước trong công cuộc đổi mới. Để góp phần tổng kết công tác xã hội hóa giáo dục, bài báo phân tích một số thành tựu và hạn chế trong công tác xã hội hóa giáo dục ở thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 1986 – 2012 để làm cơ sở thực tiễn đề xuất những mục tiêu, nhiệm vụ nhằm phát huy tiềm năng về trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo cho sự nghiệp giáo dục của đất nước.
5 Một số vấn đề lý luận về phát triển bền vững làng nghề truyền thống ở Việt Nam / Nguyễn Đình Hiền // Đại học Quy Nhơn .- 2012 .- Số 4/2012 .- Tr. 5-14. .- 330
Trình bày quan niệm về phát triển bền vững, làng nghề truyền thống và quan niệm về phát triển bền vững làng nghề truyền thống. Nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững làng nghề truyền thống.
6 Ứng dụng mô hình SEM đo lường sự hài lòng của sinh viên về chất lượng dịch vụ phục vụ đào tạo / Lê Dân // Đại học Quy Nhơn .- 2012 .- Số 4/2012 .- Tr. 121-130. .- 370
Giới thiệu mô hình đánh giá chất lượng dịch vụ phục vụ đào tạo dựa vào phân tích SEM nhằm tìm ra những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ đào tạo và đề ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ đào tạo nói riêng và chất lượng đào tạo nói chung.
7 Dạng kết cấu trần thuật trùng phức các mạch truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu (Qua khảo sát “Mảnh trăng cuối rừng”, “Phiên chợ Giát”) / ThS. Đoàn Thị Huệ // Khoa học Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh .- 2012 .- Số 38 (72)/2012 .- Tr. 30-40. .- 895
Đi sâu tìm hiểu về sự trùng phức mạch truyện (thể hiện ở vai trần thuật và điểm nhìn trần thuật), trùng phức cả trong thời gian và giọng điệu trần thuật trong các truyện ngắn “Mảnh trăng cuối rừng”, “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, “Phiên chợ Giát” nhằm góp phần làm rõ hơn cái hay, cái đặc sắc trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
8 Bước đầu tìm hiểu về quan hệ xã hội – nhân sinh của người Việt và người Hàn qua truyện cổ tích / ThS. Lưu Thị Hồng Việt // Khoa học Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh .- 2012 .- Số 38 (72)/2012 .- Tr. 63-75. .- 895
Các quan hệ trong gia đình, xã hội được dân gian Việt và dân gian Hàn phản ánh rất sinh động, rõ nét là một nội dung cơ bản của thể loại cổ tích. Quan hệ ấy thật đa dạng và phức tạp, bao gồm quan hệ cha mẹ - con cái, chồng – vợ, anh – em, mẹ ghẻ - con chồng, mẹ chồng – nàng dâu, địa chủ - nông dân gắn liền với sự đối lập giữa giàu nghèo, xấu tốt, thiện ác. Qua đó, chúng ta thấy được những điểm tương đồng và dị biệt về nội dung của truyện cổ tích hai nước Việt
9 Đánh giá sức tải trong hoạt động du lịch – sự cần thiết cho quy hoạch và quản lí phát triển du lịch biển / ThS. Nguyễn Văn Hoàng // Khoa học Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh .- 2012 .- Số 38 (72)/2012 .- Tr. 76-83. .- 910
Trong những năm gần đây, số lượng các khu nghĩ dưỡng và số lượng du khách không ngừng gia tăng tại các vùng ven biển ở nước ta. Sự gia tăng này kéo theo nhiều tác động tiêu cực đến môi trường, kinh tế - xã hội. Vì vậy cần phải có phương pháp đánh giá sức tải trong hoạt động du lịch, giúp các nhà quy hoạch và quản lí du lịch có thể xác định được khả năng tải phù hợp của các khu du lịch biển nhằm hạn chế những tác động tiêu cực mà hoạt động du lịch mang lại.
10 Cấu trúc tham số của tính từ tiếng Việt / TS. Lê Kính Thắng, Phạm Hồng Hải // Khoa học Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh .- 2012 .- Số 38 (72)/2012 .- Tr. 95-100. .- 400
Nghiên cứu vấn đề xác định và miêu tả cấu trúc tham tố của tính từ tiếng Việt. Giống như động từ, tính từ trong tiếng Việt có thể là hạt nhân của cấu trúc tham tố. Phần lớn tính từ trong tiếng Việt là vị từ đơn trị, một số tính từ là vị từ song trị.