Xây dựng mô hình pharmacophore cho các hợp chất có tác dụng ức chế enzyme NS3 protease; (2) Từ mô hình pharmacophore thiết lập được, đề tài tiến hành sàng lọc các chất có tác dụng ức chế enzyme NS3 protease từ thư viện ZINC (ZINC database) với công cụ ZINCPharmer. Đối tượng và phương pháp: Xây dựng mô hình pharmacophore thông qua docking hợp chất tham chiếu (hợp chất 1) vào enzyme NS3 protease (PDB ID: 5H4I), sử dụng công cụ ZINCPharmer để sàng lọc ảo từ thư viện ZINC và đánh giá bằng phương pháp docking phân tử thông qua phần mềm AutoDock Vina. Kết quả: Nghiên cứu xây dựng thành công mô hình pharmacophore đặc trưng với ba vòng thơm (Ar), một nhóm kỵ nước và hai nhóm nhận hydro. Sàng lọc ảo từ 21.777.093 hợp chất trong thư viện ZINC thu được 24 hợp chất phù hợp với mô hình pharmacophore. Trong đó, 10 hợp chất thỏa mãn quy tắc Lipinski. Sau đó, thực hiện docking những hợp chất này, kết quả cho thấy năng lượng liên kết với NS3 protease dao động từ -7,5 đến -8,1 kcal/mol. Đặc biệt, hợp chất ZINC08961480 có năng lượng liên kết thấp nhất (-8,1 kcal/mol) và tạo nhiều tương tác quan trọng với các dư lượng amino acid, bao gồm liên kết hydro (Ser135, Tyr150), tương tác π-π xếp chồng (Tyr161), tương tác π-alkyl và alkyl (Val36, Ala132). Kết luận: Nghiên cứu đã xây dựng thành công mô hình pharmacophore, phục vụ sàng lọc các hợp chất có khả năng ức chế enzyme NS3 protease. Từ thư viện ZINC, 24 hợp chất tương thích với mô hình được sàng lọc, trong đó có 10 hợp chất đáp ứng quy tắc Lipinski. Đặc biệt, hợp chất ZINC08961480 có ái lực liên kết nổi trội và tiềm năng phát triển thành thuốc điều trị virus Zika nhờ khả năng tương tác tốt với vị trí hoạt động của enzyme NS3 protease.
Bài nghiên cứu đã trình bày cơ sở lý thuyết và giải thuật của phương pháp LAS, đồng thời xây dựng một chương trình tính toán bằng ngôn ngữ lập trình Python. Chương trình này đã được sử dụng để mô phỏng và thực hiện các so sánh sau: so sánh với trường ngẫu nhiên không xem xét tính tương quan, cho thấy mô hình LAS thể hiện rõ tính tương quan này; so sánh các trường hợp khác nhau liên quan đến thông số như phương sai và độ dài tương quan; thực hiện 100.000 lần mô phỏng để so sánh các kết quả đầu vào với kết quả kỳ vọng, phương sai và độ dài tương quan. Kết quả cho thấy mô hình phát sinh đạt mức độ chấp nhận được. Tuy nhiên, chương trình tính này mới chỉ áp dụng cho bài toán một chiều (1-D) và nhóm tác giả đang tiếp tục phát triển để áp dụng vào các bài toán nhiều chiều hơn.
Nghiên cứu này đề xuất một quy trình hoàn công mới ứng dụng mô hình thông tin công trình (BIM) tích hợp với hệ thống thông tin địa lý (GIS), kết hợp các công nghệ tiên tiến như quét laser 3D, ảnh viễn thám (photogrammetry) và dữ liệu đám mây điểm (Point Cloud). Dữ liệu hiện trạng từ thực tế được đưa vào mô hình BIM-GIS để xây dựng quy trình trực quan, tích hợp không gian, hỗ trợ hiệu quả công tác kiểm soát, đối chiếu, lưu trữ và chia sẻ thông tin. Kết quả cho thấy quy trình giúp tăng minh bạch, giảm sai sót, cải thiện phối hợp, rút ngắn thời gian hoàn công. Quy trình này không chỉ góp phần nâng cao chất lượng công tác quản lý mà còn là bước tiến quan trọng thúc đẩy quá trình số hóa trong lĩnh vực xây dựng hạ tầng cảng biển tại Việt Nam.
Báo cáo một trường hợp hiếm gặp về đái tháo đường khởi phát sau dị ứng Allopurinol, nhấn mạnh mối liên quan giữa phản ứng quá mẫn thuốc và rối loạn nội tiết. Phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân nam 65 tuổi nhập viện vì phù mặt và tổn thương da sau khi sử dụng Allopurinol. Dù ngừng thuốc, triệu chứng vẫn tiếp diễn. Sau nhập viện, bệnh nhân được chẩn đoán hội chứng tăng nhạy cảm thuốc và điều trị với corticoid, kháng histamin. Tình trạng toan chuyển hóa không đáp ứng điều trị dẫn đến lọc máu. Bệnh nhân sau đó xuất hiện tăng đường huyết nghiêm trọng, nhiễm toan ceton, được xác định là đái tháo đường típ 1. Kết quả: Các xét nghiệm miễn dịch ghi nhận anti-GAD vùng xám, dương tính với HSV, EBV, CMV, gợi ý vai trò của yếu tố vi-rút trong cơ chế bệnh sinh. Sau điều trị insulin, bệnh nhân ổn định và xuất viện. Kết luận: Đái tháo đường khởi phát sau dị ứng thuốc tuy hiếm gặp nhưng cần được lưu ý trong thực hành lâm sàng. Ở bệnh nhân có phản ứng quá mẫn, nếu xuất hiện toan chuyển hóa không rõ nguyên nhân, cần đánh giá nguy cơ nhiễm toan ceton do tăng đường huyết, ngay cả khi bệnh nhân không có tiền sử đái tháo đường. Việc theo dõi sát bệnh nhân sau dị ứng thuốc là cần thiết để phát hiện kịp thời các biến chứng nội tiết.
Nghiên cứu đánh giá độ chính xác của mô hình đám mây điểm 3D tạo từ ảnh chụp bằng điện thoại thông minh, phục vụ khảo sát hiện trạng công trình xây dựng. Thực nghiệm được thực hiện tại tòa nhà A2, Trường Đại học Bách Khoa – ĐHQG Tp.HCM. Tổng cộng 77 ảnh chụp bằng điện thoại Xiaomi 12 có độ phân giải cao được xử lý bằng phần mềm Agisoft Metashape để tái tạo mô hình đám mây điểm, thu được hơn 81 triệu điểm. Mười điểm kiểm soát mặt đất (GCPs) được bố trí và đo tọa độ bằng máy toàn đạc điện tử. Năm trong số đó được sử dụng để hiệu chỉnh mô hình. Độ chính xác được đánh giá theo: (1) sai số vị trí các điểm GCPs và (2) sai số chiều dài 17 cạnh đo thực tế trên công trình. Sau khi nắn chỉnh mô hình với năm GCPs, mô hình được hiệu chỉnh về vị trí và tỷ lệ thực tế. Kết quả cho thấy sai số trung bình tại các điểm GCPs lần lượt là là 0.0126 m theo phương X, 0.0108 m theo phương Y và 0.0151 m theo phương Z với sai số tổng hợp (RMSE) khoảng 2,3 cm. Sai số tuyệt đối chiều dài cạnh dao động từ 0.011 m đến 0.055 m, với giá trị RMSEcạnh là 0.036 m. Sai số tương đối dao động trong khoảng 0.9% đến 4.6 %. Nghiên cứu cho thấy phương pháp chụp ảnh bằng điện thoại kết hợp xử lý bằng phần mềm thương mại có thể đáp ứng yêu cầu độ chính xác trong khảo sát hiện trạng, đặc biệt phù hợp trong điều kiện thiếu thiết bị chuyên dụng, chi phí thấp và cần triển khai nhanh chóng.
Đánh giá mối tương quan giữa thang đánh giá lo âu Zung (SAS) và thang đánh giá lo âu Hamilton trên sinh viên Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh có biểu hiện rối loạn lo âu. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 60 sinh viên Đại học Y dược TPHCM có biểu hiện rối loạn lo âu từ tháng 11/2024 đến 12/2024. Kiểm định Spearman được dùng để đánh giá mối tương quan giữa 2 thang đo: SAS và HAM-A. Kết quả: Dựa trên phân tích tương quan Spearman giữa thang đo SAS và Ham-A của nhóm nghiên cứu có tương quan mạnh với r = 0,8190 (p < 0,001). Kết luận: Thang HAM-A mang lại kết quả đánh giá lo âu tương xứng với thang SAS, vì vậy có thể áp dụng linh hoạt 2 thang đo này trong các nghiên cứu cũng như thực hành lâm sàng, đồng thời khi sử dụng kết hợp cả 2 làm tăng tính tin cậy của kết quả đánh giá mà còn giúp giảm thiểu sai sót do hạn chế riêng lẻ của từng thang đo.
Đánh giá tổng quan các hình thái tổn thương giải phẫu bệnh của dập não do tai nạn giao thông đường bộ. Phương pháp: Nghiên cứu áp dụng phương pháp tổng quan luận điểm. Chiến lược tìm kiếm các bài báo khoa học trên thư viện PubMed và Google Scholar.Các bài báo toàn văn đã được tìm và được sàng lọc dựa trên hướng dẫn PRISMA-ScR, có 10 bài xuất bản trong khoảng thời gian từ năm 2014 tới 2024 được lựa chọn đưa vào tổng hợp. Kết quả: Các loại tổn thương dập não bao gồm: tổn thương nguyên phát, tổn thương thư phát, tổn thương khu trú, tổn thương lan toả, tổn thương đối xứng. Hình ảnh mô bệnh học của tổn thương dập não đa dạng: tổn thương thành ổ sau CTSN kín, tổn thương não sau CTSN hở, Tổn thương màng não sau CTSN, tổn thương da vùng đầu, tổn thương sợi trục. Kết luận: Với bác sỹ Pháp Y, ngoài nhận biết tổn thương trên đại thể cần biết và hiểu được tổn thương trên vi thể có vậy mới có cái nhìn toàn diện về chấn thương sọ não nói chung, dập não nói riêng đặc biệt trong đánh giá thời gian tổn thương.
Trong bối cảnh chuyển đổi số lĩnh vực hạ tầng, việc tích hợp các công nghệ số như UAV, BIM và GIS đang mở ra những hướng tiếp cận mới trong công tác khảo sát, quản lý và bảo trì công trình giao thông. Nghiên cứu này đề xuất một quy trình tích hợp ba bước bao gồm: (i) thu nhận và xử lý dữ liệu ảnh UAV để tạo lập đám mây điểm; (ii) mô hình hóa BIM từ đám mây điểm; và (iii) chuyển đổi, tích hợp mô hình BIM vào môi trường GIS nhằm trực quan hóa và truy vấn thông tin công trình. Thực nghiệm được triển khai tại một đoạn tuyến Quốc lộ 1K, tỉnh Bình Dương, sử dụng thiết bị DJI Mavic 3 Enterprise và phần mềm Agisoft Metashape để xử lý ảnh theo kỹ thuật SfM – MVS. Đám mây điểm thu được gồm hơn 173 triệu điểm, với sai số định vị sau hiệu chỉnh GCP dao động từ 2–11 cm. Mô hình BIM được thiết lập trong môi trường Revit và đồng bộ hệ tọa độ bằng cách sử dụng Civil 3D, sau đó được xuất sang định dạng IFC và tích hợp vào nền tảng GIS ArcGIS Pro. Kết quả cho thấy mô hình có khả năng phản ánh chính xác hình dạng mặt đường và các cấu kiện phụ trợ, hỗ trợ hiệu quả công tác giám sát và phân tích không gian. Nghiên cứu cũng đề xuất hướng phát triển tương lai là kết nối mô hình với cảm biến IoT để xây dựng hệ thống quản lý hạ tầng thông minh thời gian thực.
Nghiên cứu này tập trung đánh giá hiệu quả làm việc của bộ phận thoát nước trong các công trình đất điển hình. Phương pháp phần tử hữu hạn Galerkin được sử dụng để giải phương trình cân bằng dòng thấm trong môi trường đất. Trong trường hợp các vùng không bão hòa xuất hiện trong khu vực tính toán, mô hình van Genuchten được áp dụng để tính toán hệ số thấm của đất trong các vùng này. Khi xác định mặt bão hòa, là ranh giới giữa vùng không bão hòa và vùng bão hòa, một thuật toán giải lặp với các tiêu chí hội tụ được sử dụng. Python được dùng để thiết lập một chương trình tính tích hợp tất cả các lý thuyết đã đề cập ở trên. Sau đó, chương trình này được ứng dụng để phân tích hiệu quả của bộ phận thoát nước trong đập đất và phía sau tường chắn. Kết quả cho thấy phương pháp đề xuất có thể ứng dụng hiệu quả trong việc đánh giá hiệu năng của bộ phận thoát nước trong công trình đất.
Đánh giá kiến thức, thực hành về an toàn thực phẩm của người chế biến thực phẩm chính tại các hộ kinh doanh ăn uống ở huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh và một số yếu tố liên quan. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên toàn bộ 296 người đang tham gia chế biến thực phẩm tại các hộ kinh doanh ăn uống ở huyện Hóc Môn năm 2025. Số liệu được thu thập bằng phỏng vấn trực tiếp và quan sát quá trình chế biến, bảo quản thực phẩm của người chế biến thực phẩm bằng bảng kiểm. Kết quả: Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ kiến thức đúng về an toàn thực phẩm là 84,5%, trong đó kiến thức đúng về nhận thức việc xử lý ngộ độc thực phẩm là 91,6%; lựa chọn, chế biến thực phẩm nguồn gốc đạt 81,4%; bảo quản thực phẩm đạt 88,9%; vệ sinh cá nhân của nhân viên đạt 88,9%; về môi trường chất thải là 90,5%. Thực hành đúng về an toàn thực phẩm của người chế biến là 82,1%. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức về an toàn thực phẩm gồm: nơi ở (PR = 0,85; KTC 95% = 0,78-0,92); học vấn (PR = 1,38; KTC 95% = 1,06-1,78); kinh nghiệm > 2 năm có kiến thức an toàn thực phẩm tốt (PR = 1,4; KTC 95% = 1,24-1,58). Yếu tố liên quan đến thực hành về an toàn thực phẩm gồm: độ tuổi trên 40 (PR = 1,17; KTC 95% = 1,02-1,35); nơi ở thị trấn (PR = 0,86; KTC 95% = 0,78-0,95); kiến thức kinh nghiệm > 2 năm (PR = 1,14; KTC 95% = 1,01-1,28) của người chế biến chính về an toàn thực phẩm. Kết luận: Kiến thức, thực hành về an toàn thực phẩm của người người chế biến tại các hộ kinh doanh ăn uống ở huyện Hóc Môn khá cao. Hoạt động can thiệp bằng truyền thông cần tập trung vào nhóm người dân khu vực nông thôn, người có trình độ học vấn thấp và người mới vào nghề chế biến thực phẩm.