Ngày nay, logistics đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc đua cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Điều này tập trung vào việc tiết kiệm chi phí, tạo ra sự khác biệt, rút ngắn thời gian vận chuyển và sử dụng tối đa các khả năng của doanh nghiệp. Sự kết hợp của mọi chức năng và quy trình liên quan đến logistics trở nên càng quan trọng hơn. Điều này không chỉ giúp doanh nghiệp hiện đại hóa một cách hiệu quả mà còn mở ra cơ hội mới trong việc giải quyết vấn đề và tận dụng các lợi ích tiềm ẩn. Số lượng phương tiện vận chuyển theo đó cũng đang tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, cần cân nhắc kỹ lưỡng về tác động của việc tăng cường hoạt động logistics đối với môi trường.
Bài nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá mức độ ảnh hưởng của mối quan tâm về môi trường đến ý định tiêu dùng mỹ phẩm thuần chay trên nền tảng mạng xã hội của Gen Z tại địa bàn thành phố Hà Nội. Nhóm tác giả đã thu thập được 338 mẫu khảo sát trực tuyến từ gen Z trên địa bàn Hà Nội có quan hệ mật thiết với đề tài nghiên cứu. Dữ liệu sau khi thu thập sẽ được xử lý qua hai phần mềm SPSS 20.0 và AMOS 24.0 để từ đó đưa ra những đánh giá cụ thể. Kết quả cho thấy ý định mua bị ảnh hưởng mạnh mẽ nhất bởi thái độ của người tiêu dùng.
Phân hóa xã hội là sự phân biệt diễn ra giữa các nhóm xã hội và con người trên cơ sở các yếu tố sinh học, sinh lý và văn hóa xã hội, như giới tính, tuổi, hoặc dân tộc, dẫn đến sự phân công những vai trò và vị thể trong một xã hội. Đây là quá trình vận hành liên tục và có mối quan hệ chặt chẽ với các khái niệm bình đẳng hay bất bình đẳng xã hội, phân tầng xã hội, công bằng xã hội. Trong bài viết này, tác giả phân tích hiện tượng phân hoá xã hội về kinh tế ở Việt Nam hiện nay, từ đó, đưa ra một số nhận định về vấn đề này.
Thị trường các-bon được ghi nhận là một trong các phương thức để định giá các-bon trên thế giới. Thị trường các-bon được phân loại thành thị trường các-bon tự nguyện và thị trường các-bon tuân thủ. Trong đó, thị trường các-bon tuân thủ hay còn được hiểu là Hệ thống mua bán phát thải khí nhà kính (ETS) được nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ áp dụng để giảm lượng phát thải khí nhà kính. Mỗi thị trường các-bon tuân thủ có quy định riêng về mô hình, cụ thể là về hàng hóa, đối tượng tham gia, sàn giao dịch, cơ quan quản lý… Với mục tiêu xây dựng và vận hành thị trường các-bon trong thời gian tới, Việt Nam cần nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm quốc tế về mô hình thị trường các-bon tuân thủ.
Trước những vấn đề cấp bách của hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang xây dựng một số công cụ định giá các-bon. Đặc biệt phải kể đến thị trường các-bon nội địa – công cụ được nhiều quốc gia ưu tiên triển khai vì tính hiệu quả của công cụ này. Các định hướng, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội gần đây của Việt Nam đã ghi nhận tầm quan trọng của việc phát triển thị trường các-bon trong nước cùng với việc tham gia thị trường quốc tế để trao đổi và bù trừ tín chỉ các-bon. Bài viết này đánh giá thực trạng pháp luật và cơ sở hạ tầng sẵn có để đánh giá cơ sở triển khai thực hiện và quản lý thị trường các-bon trong nước.
Việc đo lường chi phí phát thải khí nhà kính (hay còn gọi là định giá các-bon) giữa các quốc gia hiện nay rất khác nhau, có nước chưa áp dụng công cụ định giá các-bon hoặc mỗi nước lựa chọn các công cụ định giá các-bon riêng. Khác biệt trong định giá các-bon xảy ra cùng với quá trình di chuyển của hàng hóa thông qua thương mại quốc tế, đã tạo ra hiện tượng rò rỉ carbon. Rò rỉ các-bon có thể được giảm bớt thông qua cơ chế điều chỉnh lượng các-bon biên giới (Border Carbon Adjustment - BCA) áp dụng tại quốc gia nhập khẩu. Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng, BCA tạo ra rào cản thương mại gây hạn chế nhập khẩu, bảo hộ hàng hóa trong nước. Bài viết này sẽ đưa ra cách nhìn khác về BCA và tác động của BCA với phát triển thị trường các-bon của quốc gia.
Malaria, mainly caused by Plasmodium falciparum, is a major global health concern. In Vietnam, resistance to artemisinin-based combination therapies (ACTs) is rising, jeopardizing malaria control efforts. This study focuses on mutations in the pfK13 and pfEXO genes, particularly the E415G mutation, in Southern Vietnam. The study involved 421 patients across two cohorts. The first, with 63 patients from Binh Phuoc and Dak Nong, had uncomplicated P. falciparum malaria and were part of the Therapeutic Efficacy Studies (TES), treated according to WHO guidelines (2009). The second cohort, comprising 358 patients from the Central Highlands, aimed to assess mutation frequency in genes linked to artemisinin resistance. Molecular marker analysis, including Sanger sequencing for pfK13 and ARMS-PCR for E415G in pfEXO, was conducted. The study also examined the association of these mutations with Day 3 parasitemia and treatment outcomes using Dihydroartemisinin-Piperaquine (DHA-PPQ).
Hypohidrotic ectodermal dysplasia (HED) is a rare disease characterized by abnormal development of the structures derived from the ectoderm layer, including hair, teeth, nails, and sweat glands. The most observed form of HED, which is known as X-linked hypohidrotic ectodermal dysplasia (XLHED), is commonly attributed to genetic abnormalities in the ectodysplasin A (EDA) gene.
An imbalance of glucose and severely high triglyceride are the key characteristics driving hypertriglyceridemia and hyperlipidemic pancreatitis. Hereditary factors considerably promote the increase of triglyceride levels and secondary complications. This study explored the clinical characteristics and genetic causes of a young girl with recurrent severe hypertriglyceridemia-developed pancreatitis at 9-year-olds and diabetes mellitus appearance at 14-year-olds.
Infertility is a complex disease that is characterized by the failure to achieve pregnancy after 24 months of regular, unprotected sexual intercourse. Various factors result in male sterility, including genetic and non-genetic factors. Recently, scientists have drawn attention to the role of metabolic genes in contributing to the risk of male infertility by inducing reactive oxygen species (ROS). However, such studies about N-acetyltransferase 2 (NAT2), an enzyme that participates in phase II metabolism, remain limited. Thus, this study investigated whether the NAT2 rs1799931 variant was associated with idiopathic male sterility in Vietnam. A total of 306 DNA samples (148 cases and 158 controls) were genotyped using the polymerase chain reaction (PCR) and restriction fragment length polymorphism (RFLP) methods. About 20% of randomly selected samples were confirmed using an allele-specific polymerase chain reaction (AS-PCR).