Một mục tiêu quan trọng của doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng là tìm kiếm lợi ích cho cổ đông. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, ngân hàng thương mại (NHTM) cũng là một nhân tố hình thành các hoạt động xã hội với những cá nhân và tổ chức liên quan, tạo nên mối liên kết với các chủ thể trong nền kinh tế. Tại Việt Nam, Nhà nước đã có quy định và đề ra bộ tiêu chí để đăng kí trách nhiệm xã hội (CSR) đối với ngân hàng theo tiêu chuẩn ISO 26000:2010. Điều này thúc đẩy các ngân hàng thực hiện hoạt động CSR và có khung báo cáo nhất quán về kết quả hoạt động này. Nhờ vậy, hoạt động tìm hiểu về ý nghĩa của CSR nói chung và CSR đối với ngành Ngân hàng nói riêng sẽ có nhiều thuận lợi. Tuy nhiên, trong thời gian qua, việc thực hiện CSR tại các NHTM còn tồn tại nhiều bất cập. Nghiên cứu tiến hành phân tích thực trạng và đề xuất các kiến nghị nhằm tăng cường thực hiện CSR tại các NHTM Việt Nam.
Bài viết nghiên cứu, đánh giá quy định của pháp luật và quy chế nội bộ của Ngân hàng Hợp tác xã (NHHTX) về hoạt động cho vay hỗ trợ từ Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống quỹ tín dụng nhân dân (Quỹ bảo toàn) và thực tiễn thi hành từ thời điểm thành lập năm 2014 đến nay, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay hỗ trợ từ Quỹ bảo toàn.
Tín dụng chính sách xã hội là một chủ trương mang tính nhân văn sâu sắc, đồng thời cũng là một trong những trụ cột trong hệ thống các chính sách giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình đổi mới. Đây là chính sách hết sức thiết thực, hiệu quả, đã thực sự đi vào cuộc sống và được người dân đồng tình ủng hộ. Bài viết trình bày thực trạng tín dụng của Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH) trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long, từ đó, đề xuất một số khuyến nghị nhằm hoàn thành các chỉ tiêu đã đặt ra trong Đề án cho vay đối với cá nhân, hộ sản xuất, kinh doanh nhằm phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình.
Bài viết làm rõ các nội dung pháp lí về bảo hộ bí mật kinh doanh đối với chương trình máy tính như khái niệm, điều kiện bảo hộ, giới hạn bảo hộ; phân tích các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh đối với chương trình máy tính và trách nhiệm pháp lí đối với các hành vi xâm phạm. Từ đó, bài viết đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật hiện hành và nâng cao thực thi về bí mật kinh doanh đối với chương trình máy tính như về hoạt động chứng minh trong tố tụng, quyền dịch ngược chương trình máy tính và tăng cường hiệu quả thi hành pháp luật về bí mật kinh doanh cho chương trình máy tính tại Việt Nam hiện nay.
Thị trường quyền phát thải carbon được xem là một cơ chế hữu hiệu để vừa kiểm soát hoạt động xả thải, vừa không hạn chế sự phát triển kinh tế. Tính ổn định của thị trường sẽ phụ thuộc vào việc xác định bản chất pháp lí của các đối tượng được phép lưu thông trong thị trường đó. Tuy nhiên, cho đến nay, thị trường giao dịch carbon trên thế giới nhìn chung vẫn chưa đạt được sự thống nhất trong việc xác định bản chất pháp lí của quyền phát thải. Bài viết cho thấy pháp luật các quốc gia có những cách tiếp cận khác nhau về bản chất pháp lí của quyền phát thải carbon, theo một trong những trường hợp sau: 1) Chỉ là công cụ hành chính; 2) Là đối tượng của quyền sở hữu, trong đó phân thành hàng hoá hoặc công cụ tài chính; 3) Là đối tượng của quyền sở hữu nhưng bị hạn chế; 4) Được xác định theo cách thức linh hoạt. Bài viết trình bày các yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định bản chất pháp lí của quyền phát thải carbon; đồng thời khái quát pháp luật Việt Nam về xác định bản chất pháp lí của quyền phát thải carbon và đưa ra một số khuyến nghị hoàn thiện.
Bài viết chỉ ra và làm rõ một số bất cập, hạn chế trong quy định pháp luật về người đại diện theo pháp luật của tổ chức tín dụng theo Luật các Tổ chức tín dụng hiện hành thông qua việc đánh giá, so sánh với nội dung người đại diện pháp nhân (trong Bộ luật Dân sự) và người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp (trong Luật Doanh nghiệp) cũng như từ thực tiễn thực thi quy định này. Từ kết quả nghiên cứu, bài viết đề xuất một số kiến nghị nhằm thực hiện hiệu quả quy định về người đại diện theo pháp luật của tổ chức tín dụng, đồng thời khắc phục những bất cập, hạn chế phát sinh từ thực tiễn thực thi pháp luật về người đại diện theo pháp luật của tổ chức tí dụng để bảo đảm quyền lợi khách hàng và uy tín của tổ chức tín dụng.
Tội phạm công nghệ cao ngày càng trở nên khó kiểm soát và các phương thức phạm tội cũng tinh vi hơn so với các loại tội phạm xuyên quốc gia khác. Trong khuôn khổ Liên minh châu Âu (EU), mối đe dọa của tội phạm công nghệ cao đối với an ninh mạng khu vực cũng là một thách thức lớn được đặt ra trong kỉ nguyên số hiện nay, đặc biệt trong bối cảnh EU đặt những ưu tiên trong đấu tranh với tội phạm nghiêm trọng và có tổ chức giai đoạn 2022 - 2025. Hài hoà hoá pháp luật EU về tội phạm công nghệ cao vừa là chiến lược và cũng là biện pháp được triển khai để đối phó với tội phạm công nghệ cao với những thành công ban đầu. Bài viết phân tích thực trạng hài hoà hoá pháp luật EU về tội phạm công nghệ cao, chỉ ra những cơ hội mà EU sẽ tận dụng cũng như đối phó với các thách thức để thúc đẩy hài hoà hoá pháp luật EU về tội phạm công nghệ cao trong thời gian tới; liên hệ với hài hoà hoá pháp luật về tội phạm công nghệ cao trong ASEAN để làm rõ hơn những kết quả hài hoà hoá pháp luật EU về tội phạm công nghệ cao.
Hiện tượng mực nước biển dâng do biến đổi khí hậu hiện đã gây ra các tác động trực tiếp đến các đặc điểm bờ biển như điểm cơ sở, đường cơ sở của các quốc gia ven biển và do vậy tác động đến quyền được hưởng vùng biển của tất cả quốc gia. Vấn đề pháp lí cốt lõi đặt ra là tác động của các thay đổi trên đối với các ranh giới biển đã được thiết lập thông qua thoả thuận giữa các quốc gia hoặc cơ quan tài phán quốc tế. Về vấn đề này, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 không có quy định nào trực tiếp điều chỉnh vấn đề hệ luỵ của hiện tượng này đối với các điều ước về ranh giới biển. Do vậy, việc thay đổi hiệu lực của điều ước thiết lập ranh giới biển phải tuân thủ các điều khoản có liên quan của thoả thuận đó hoặc các quy định có liên quan của luật điều ước quốc tế, đặc biệt là nguyên tắc về sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh theo quy định của Công ước Viên về Luật Điều ước năm 1969. Bài viết phân tích vấn đề hiệu lực của các điều ước phân định ranh giới biển trên cơ sở nguyên tắc về sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh trong bối cảnh mực nước biển dâng.
Sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư với sự ra đời của nhiều mô hình kinh doanh mới dựa trên các công nghệ mới như AI, Blockchain, IoT…, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, đã mang đến nhiều cơ hội cũng như thách thức cho nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có thách thức đối với hệ thống pháp luật khi mà hệ thống pháp luật hiện hành có thể chưa có quy định hoặc quy định chưa rõ ràng để điều chỉnh các hoạt động công nghệ tài chính này. Bài viết nghiên cứu và phân tích các quy định cũng như thực tiễn áp dụng khung thể chế thử nghiệm có kiểm soát đối với hoạt động công nghệ tài chính (FinTech) tại Singapore; chỉ ra những bài học kinh nghiệm và đưa ra đề xuất, kiến nghị trong việc xây dựng khung thể chế thử nghiệm có kiểm soát đối với hoạt động FinTech tại Việt Nam.
Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố đến ỷ lại xã hội trong học tập nhóm của sinh viên Trường Đại học Luật Hà Nội được tiến hành khảo sát trên 323 sinh viên. Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố về sự thiếu tự tin của sinh viên; sự thiếu kĩ năng giao tiếp của sinh viên; sự mơ hồ của sinh viên về nhiệm vụ nhóm; sự thiếu động lực học tập của sinh viên; đặc điểm nhân cách của sinh viên; ý nghĩa của nhiệm vụ nhóm được giao; sự thiếu công bằng khi đánh giá điểm trong học tập nhóm; trưởng nhóm có ảnh hưởng đến ỷ lại xã hội trong học tập nhóm của sinh viên. Nghiên cứu cũng chỉ ra 3 yếu tố mạnh nhất trong sự dự báo cho ỷ lại xã hội trong học tập nhóm của sinh viên là sự thiếu tự tin của sinh viên, sự thiếu kĩ năng giao tiếp của sinh viên và sự mơ hồ của sinh viên về nhiệm vụ nhóm. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số kiến nghị nhằm hạn chế sự xuất hiện ỷ lại xã hội trong học tập nhóm của sinh viên cũng như nâng cao hiệu quả học tập nhóm của sinh viên Trường Đại học Luật Hà Nội.