Cơ sở hạ tầng bê tông hiện đại đòi hỏi các thành phần kết cấu phải chắc chắn hơn và bền lâu về mặt thời gian. Việc đưa các hạt nano được cho là giúp cải thiện đáng kể đặc tính của vật liệu gốc xi măng. Trong số đó, Graphene đã được quan tâm sử dụng khi làm chất nano để gia cố vật liệu gốc xi măng do tính chất cơ học vượt trội. Tuy nhiên, đặc tính của bê tông phụ thuộc vào mỗi loại Graphene khác nhau. Bài báo này trình bày nghiên cứu về ảnh hưởng của sự kết hợp giữa Graphene (GP) và Graphene oxit (GO) đến tính chất cơ học và độ bền của bê tông. Kết quả cho thấy GO-GP giúp cải thiện cường độ chịu nén, cường độ chịu kéo khi uốn và độ chống thấm nước của bê tông thông qua việc lấp đầy các lỗ rỗng có kích thước nano và tạo ra các sản phẩm hydrat hóa chất lượng.
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá đặc điểm rửa trôi của bê tông cốt sợi PET trong môi trường nước nhiễm phèn. Các mẫu bê tông thử nghiệm có hàm lượng cốt sợi cố định ở 0,45% thể tích gồm F00 (mẫu đối chứng không có cốt sợi), F2-5, F4-3, F4-5, F6-5 và F4-7 (con số sau kí tự F lần lượt thể hiện độ rộng và chiều dài sợi theo đơn vị mm). Các mẫu bê tông sau khi dưỡng hộ đến 28 ngày ở điều kiện thông thường được ngâm trong môi trường nước với độ pH tương đương 3,5; 5,0 và 6,0. Axít axetat được sử dụng để điều chỉnh pH trong suốt 30 ngày thí nghiệm. Đặc điểm rửa trôi của bê tông được đánh giá thông qua các chỉ số chất lượng nước gồm độ pH, độ mặn, TDS, ORP và độ dẫn điện. Các kết quả ghi nhận cho thấy chất lượng nước ngâm mẫu bê tông F2-5 ít khác biệt nhất so với mẫu F00, trong khi mẫu F6-5 có khác biệt lớn nhất so với mẫu F00. Chất lượng nước ngâm của các mẫu bê tông F4-3, F4-5 và F4-7 khá tương đồng với nhau. Như vậy, mẫu bê tông sử dụng cốt sợi có độ rộng càng lớn so với chiều dài sợi sẽ có độ xốp lớn làm tăng khả năng giải phóng các thành phần vật chất khi hoạt động trong môi trường nước nhiễm phèn. Kết quả của nghiên cứu là cơ sở để chọn tỷ lệ chiều dài và độ rộng của cốt sợi phù hợp cho việc sản xuất bê tông cốt sợi ứng dụng cho các công trình xây dựng ở những khu vực nước bị nhiễm phèn.
Nghiên cứu dùng 7, 5% và 20% tro bay trong phối liệu gạch ceramic nung ở 1150oC lưu 15 phút. các kết quả xác định đặc tính vật liệu đã cho thấy phối liệu 7,5% tro bay làm tăng độ bền cơ mà vẫn giữ được các tính chất như độ hút nước, mật độ thực, mật độ biểu kiến và khối lượng thể tích tương đương với mẫu so sánh. Các kết quả phân tích DSC và XRD cho thấy tro bay đã làm tăng mullite giúp làm tăng bền cơ từ 34,74 lên 45,10MPa.
Bài báo này trình bày các kết quả nghiên cứu về tính chất hỗn hợp và cơ lý của xi măng sử dụng xỉ phốt pho. Công trình đã thực hiện nghiên cứu đánh giá trên loại xỉ phốt pho dạng hạt, đã được gia công nghiền mịn đến độ mịn >3500g/cm3. Các tính chất của xi măng được đánh giá thông qua các tiêu chuẩn TCVN hiện hành, trong đó chú trọng đến một số chỉ tiêu đánh giá về thời gian đông kết và cường độ của xi măng. Ngoài ra, xi măng sử dụng xỉ phốt pho còn được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu khác như lượng nước tiêu chuẩn, tỷ lệ độ chảy, xác định sự thay đổi chiều dài thanh vữa trong dung dịch sulfat. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, xi măng sử dụng xỉ phốt pho có chất lượng tương đối tốt gần như tương đồng với xi măng sử dụng xỉ lò cao, đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật để đưa vào ứng dụng thực tế.
Bài báo này đề xuất một kế hoạch định tuyến xe chở xi măng một cách tối ưu bằng cách sử dụng thuật toán Sine Cosine( SCA). Dựa trên nhu cầu của mỗi cửa hàng, sức chứa của xe và khoảng cách đến các cửa hàng để đưa ra kế hoạch di chuyển hợp lý cho các xe tải. Để chứng minh ưu thế của thuật toán Sine Cosine (SCA), bài báo sử dụng một mô hình cụ thể với 08 điểm giao hàng và so sánh với các thuật toán thông thường (SGA, DPSGA, PSO, DA, MHPSO, . Kết quả chỉ ra rằng giải pháp sử dụng thuật toán Sine Cosine là tối ưu hơn vì nó cân bằng được giữa khai thác và khám phá.Từ đó gợi ý cho các nhà quản lý đưa ra các quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn đường đi và mở rộng đầu tư.
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm giới thiệu mô hình nhằm dự đoán đường tải trọng chuyển vị của dầm ngắn GC cốt thép. Một số nghiên cứu đã được thực hiện đối với xi măng hoạt tính kiềm hoặc bê tông geopolymer (GC) ở cấp độ vật liệu. Tuy nhiên, chưa có nhiều kết quả nghiên cứu về ứng xử của cấu kiện bê tông geopolymer cốt thép. Trong các quy chuẩn thiết kế, sự đóng góp của lực cắt đối với chuyển vị võng bị bỏ qua, điều này đánh giá thấp đáng kể đến chuyển vị tổng. Mặt khác, giá trị mô đun đàn hồi thấp hơn của bê tông geopolymer ảnh hưởng đáng kể đến khả năng chịu cắt của cấu kiện dầm.
Bài báo này trình bày sự nghiên cứu về phương pháp điều khiển dựa trên cơ sở phản hồi đầu ra cho bài toán chống rung lắc của mô hình xe con cần trục ở dạng con lắc hai bậc tự do. Về mặt thực tế, các vận tốc góc của vật nâng và móc treo là luôn luôn bị dao động trong hầu hết các chuyển động cần trục. Một vấn đề có tính thực tiễn như vậy rất cần một bộ điều khiển dựa trên cơ sở phản hồi đầu ra để giảm rung động của móc treo và vật nâng. Bài báo ban đầu trình bày một số phân tích tính hiệu quả khi sử dụng cần trục, tiếp theo là một số khái niệm cơ bản về phương pháp điều khiển dựa trên cơ sở phản hồi đầu ra, ba là một bộ điều khiển dựa trên cơ sở phản hồi đầu ra được thiết kế và được áp dụng cho mô hình xe con cần trục ở dạng con lắc hai bậc tự do. Thứ tư là sự phân tích sự ổn định của hệ thống điều khiển được minh chứng theo lý thuyết ổn định của Lyapunov. Thứ năm là một số kết quả mô phỏng bằng số bằng chương trình Matlab được trình bày để hỗ trợ cho việc thiết kế bộ điều khiển dựa trên cơ sở phản hồi đầu ra. Cuối cùng là các nhận xét về các kết quả mô phỏng bằng số và kết luận.
Bài báo nghiên cứu tính toán kết cấu vách kép có dầm nối đặt cốt thép xiên làm việc sau đàn hồi. Kết quả nghiên cứu là cơ sở để tính toán và thiết kế kết cấu vách kép.
Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu về việc sử dụng xỉ nhôm thay thế một phần nguyên liệu truyền thống (hydroxit nhôm hoặc oxit nhôm) trong chế tạo xi măng alumin AC50. Hàm lượng xỉ nhôm được sử dụng trong phối liệu dao động từ 14 -38%. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Khi hàm lượng xỉ nhôm trong phối liệu tăng, cần nâng nhiệt độ nung để đảm bảo sản phẩm sau nung kết khối. Nhiệt độ nung tối ưu để sản xuất xi măng alumin AC50 sử dụng xỉ nhôm được xác định là 1350oC. Tỷ lệ xỉ nhôm tối ưu trong phối liệu là 24,3%, cho ra sản phẩm xi măng alumin AC50 – 13 có cường độ nén ở tuổi 1 (R1 = 53,63 Mpa ) và 3 ngày (R3 =74,72 Mpa), cao nhất so với các mẫu có sử dụng xỉ nhôm.
Bài báo giới thiệu kỹ thuật quan sát và phân tích biến dạng mẫu khi nung. Kỹ thuật mô phỏng thiết bị kính hiển vi đốt nóng bằng cách kết hợp một lò nung có điều khiển chế độ nhiệt với máy ảnh kỹ thuật số và phần mềm phân tích ảnh ImageJ. Một số kết quả nghiên cứu biến dạng mẫu thủy tinh trong khoảng biến mềm thể hiện tính hiệu quả của kỹ thuật này. Đây là phương pháp quan sát và phân tích mẫu nung tương đối đơn giản có thể ứng dụng trong thực tế sản xuất và nghiên cứu khoa học.