Cưỡng dâm, hiếp dâm là các tội phạm tình dục được quy định tại Điều 177 Bộ luật Hình sự Cộng hoà Liên bang Đức năm 1997. Theo quan điểm của Toà án Liên bang, muốn áp dụng Điều luật này để xử lí người đã thực hiện hành vi hiếp dâm, thì phải chứng minh nạn nhân đã có sự phản kháng mang tính thể chất của mình đối với hành vi tình dục không mong muốn từ người khác hoặc tận dụng cơ hội nhỏ nhất để có được sự trợ giúp từ trẻ em hoặc người lạ ở bãi đậu xe giữa đêm ... Với cách giải thích và hướng dẫn áp dụng Điều 177 nói trên dẫn đến thực tế là nhiều hành vi hiếp dâm đã bị bỏ lọt, không bị xử lí bằng các biện pháp hình sự. Trước thực trạng trên, năm 2016, Bộ luật Hình của Cộng hoà Liên bang Đức đã sửa đổi, bổ sung Điều 177 Bộ luật Hình sự năm 1997 quy định về các tội tấn công tình dục, cưỡng dâm và hiếp dâm cũng như lần đầu tiên quy định hành vi quấy rối tình dục là một tội phạm. Bài viết phân tích, đánh giá các quan điểm của Toà án Liên bang trong việc áp dụng Điều 177 Bộ luật Hình sự năm 1997 cũng như phân tích những điểm mới, điểm tiến bộ của Điều Luật này đã được sửa đổi, bổ sung năm 2016.
Hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản do phạm tội mà có luôn giữ vị trí và vai trò trọng trong pháp luật của mỗi quốc gia và khu vực trên thế giới. Bên cạnh các điều ước quốc tế, còn có các văn bản pháp lí khu vực quy định việc hợp tác thu hồi tài sản do phạm tội mà có giữa các quốc gia trong cùng khu vực địa lí. Bài viết phân tích, làm rõ các khía cạnh pháp lí của hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản do phạm tội mà có ở khu vực Liên minh châu Âu (EU) để chọn lọc và tiếp thu kinh nghiệm, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện khung pháp lí về hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản do phạm tội mà có của khu vực ASEAN mà Việt Nam là thành viên.
Bộ luật Dân sự năm 2015 lần đầu tiên ghi nhận chế định về quyền khác với tài sản bên cạnh chế định quyền sở hữu. Theo đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có những quy định bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể xác lập quyền khác với tài sản. Vậy chủ thể thứ ba ngay tình xác lập quyền khác với tài sản được pháp luật dân sự bảo vệ như thế nào khi giao dịch vô hiệu? Bài viết phân tích cơ sở li luận và thực trạng pháp luật hiện hành về bảo vệ người thứ ba ngay tình xác lập quyền khác với tài sản khi giao dịch vô hiệu. Qua nghiên cứu chỉ ra những bất cập, vướng mắc trong quy định pháp luật về bảo vệ người thứ ba ngay tình xác lập quyền khác với tài sản khi giao dịch vô hiệu, từ đó rút ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
Trí tuệ nhân tạo với tư cách là một công nghệ hiện đại không chỉ là xu hướng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư mà còn là nhân tố tác động đến các quan hệ pháp luật truyền thống, trong đó có pháp luật sáng chế. Bài viết nghiên cứu, đánh giá một số ) yếu tố quan trọng trong pháp luật bảo hộ sáng chế trước tác động của trí tuệ nhân tạo, xem xét kinh nghiệm điều chỉnh của Hoa Kỳ nhằm đề xuất một số khuyến nghị về chính sách cho Việt Nam.
Đánh giá tác động của các nhân tố đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết. Dữ liệu được sử dụng là báo cáo tài chính (BCTC) đã kiểm toán của 172 công ty trong giai đoạn 5 năm từ 2019 - 2023. Phương pháp nghiên cứu định lượng được sử dụng với mô hình hồi quy tuyến tính bội, trong đó biến phụ thuộc được đo lường theo mô hình Friedlan (1994) và 7 biến độc lập. Kết quả cho thấy, hiệu quả kinh doanh (ROA), tỷ trọng tài sản cố định (TANG), chất lượng doanh nghiệp (DN) kiểm toán (AUD) có tác động thuận chiều với hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Rủi ro kinh doanh (RISK) có tác động ngược chiều đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa đối với các công ty, cơ quan quản lý và nhà đầu tư trong việc đánh giá chất lượng lợi nhuận được báo cáo bởi các DN.
Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt và nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng về trải nghiệm dịch vụ cao cấp, các DN khách sạn (DNKS) ngày nay đang chú trọng đến việc áp dụng công nghệ để nâng cao hiệu quả quản lý và kiểm soát nội bộ (KSNB). Bài báo này sẽ đề cập đến đặc điểm về KSNB trong DNKS và những ứng dụng tiêu biểu của công nghệ trong việc KSNB tại các DNKS.
Bài nghiên cứu được thực hiện nhằm phân tích, đánh giá về thực trạng của phát triển tài chính, tham nhũng địa phương và bất bình đẳng thu nhập tại 53 tỉnh, thành Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu của các tỉnh, thành từ các nguồn thứ cấp trong 7 năm không liên tục, từ năm 2014 đến năm 2022. Thông qua các phương pháp nghiên cứu định tính và tổng hợp so sánh, nghiên cứu đã chỉ ra sự thay đổi của phát triển tài chính, tham nhũng địa phương và bất bình đẳng thu nhập, đồng thời, ghi nhận tác động cùng chiều của phát triển tài chính đến bất bình đẳng thu nhập và ảnh hưởng của tham nhũng địa phương đến mối quan hệ này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm cải thiện bất bình đẳng thu nhập thông qua phát triển tài chính và kiểm soát tham nhũng địa phương trong tương lai cho các tỉnh, thành nói riêng và Việt Nam nói chung.
Bài viết nghiên cứu sơ lược về quản lí tài chính cá nhân và triển vọng, thực tiễn cũng như thách thức phát triển dịch vụ tài chính cá nhân trên nền tảng số tại các ngân hàng Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm đối mặt với các thách thức hiện có của các ngân hàng Việt Nam. Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu thị trường và phân tích dữ liệu. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các ngân hàng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam đã, đang và sẽ có những dịch vụ trên nền tảng số, nổi bật là tích hợp dịch vụ trong ứng dụng mobile của ngân hàng dành cho cá nhân.
Phân tích và đánh giá thực trạng an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2021 - 2023 trên các khía cạnh gồm an toàn vốn, thanh khoản và chất lượng tài sản. Qua phân tích và đánh giá, bài viết đưa ra một số giải pháp đối với các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam và kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cùng các cơ quan quản lí nhà nước nhằm đảm bảo sự an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Nghiên cứu sử dụng mô hình định lượng để đánh giá tác động của tín dụng xanh đối với hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) qua chỉ số tỉ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng xanh cho các NHTM Việt Nam.