CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

  • Duyệt theo:
1 Phát triển thương mại điện tử ở Hà Nội trong bối cảnh chuyển đổi số / Cao Anh Thịnh, Nguyễn Thị Thu Hằng // .- 2024 .- Số 827 - Tháng 6 .- Tr. 144-146 .- 658
Thương mại điện tử đã và đang trở thành xu hướng phát triển ở hầu hết các quốc gia trên thế giới và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Thương mại điện tử đóng vai trò vô cùng quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia trong đó có Việt Nam. Trong những năm qua, Hà Nội là một trong những địa phương đứng đầu về chỉ số phát triển thương mại điện tử. Thực tiễn cho thấy, thương mại điện tử đã góp phần vào đổi mới hoạt động mua sắm, tiêu dùng của nhân dân Thủ đô, được doanh nghiệp và người dân ứng dụng ngày càng rộng rãi. Bài viết đánh giá thực trạng phát triển thương mại điện tử tạiTP. Hà Nội dựa trên một số tiêu chí cơ bản đã được xây dựng, từ đó đề xuất giải pháp thúc đẩyphát triển thương mại điện tử trong những năm tới.
2 Kinh nghiệm phát triển du lịch sinh thái tại Sabah, Malaysia và hàm ý cho Hà Nội / Nguyễn Trọng Xuân, Lê Đình Cảnh // .- 2024 .- Số 827 - Tháng 6 .- Tr. 152-154 .- 910
Phát triển du lịch sinh thái đang ngày càng được quan tâm trong hai thập kỷ gần đây. Nhiều nơi trên thế giới đã đẩy mạnh việc phát triển loại hình du lịch này và thu được nhiều thành công đáng khích lệ. Điển hình như Sabah đã thực sự trở thành một điểm đến hàng đầu về du lịch sinh thái tại đất nước Malaysia. Bài viết này nghiên cứu kinh nghiệm phát triển du lịch sinh thái tại Sabah (Malaysia), từ đó rút ra bài học cho TP. Hà Nội phát huy tiềm năng và lợi thế để phát triển loại hình du lịch này.
3 Quan hệ lợi ích giữa người lao động và doanh nghiệp trong các khu công nghiệp ở tỉnh Hà Nam / Nguyễn Thị Xuân // .- 2023 .- Số 827 - Tháng 6 .- Tr. 155-157 .- 658
Trong những năm gần đây, Hà Nam là một trong những tỉnh thu hút đầu tư lớn vào các khu công nghiệp. Hiện nay, tỉnh Hà Nam có 8 khu công nghiệp đang hoạt động với tỷ lệ lấp đầy trên 80%. Song song với sự phát triển khu công nghiệp, đó là hài hoà trong quan hệ lợi ích giữa các chủ thể. Bài viết tập trung làm rõ thực trạng quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động trong các khu công nghiệp ở tỉnh Hà Nam, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hài hoà quan hệ lợi ích giữa các chủ thể này.
4 Phát triển du lịch gắn với liên kết vùng ở tỉnh Quảng Bình / Nguyễn Thị Hương Liên // .- 2024 .- Số 827 - Tháng 6 .- Tr. 158-160 .- 910
Phát triển du lịch gắn với liên kết vùng là \chìa khóa vàng\ để các địa phương triển khai những sản phẩm du lịch độc đáo, tuyên truyền quảng bá và xúc tiến du lịch, huy động vốn đầu tư và xây dựng cơ chế chính sách đầu tư phát triển du lịch chung của vùng. Quảng Bình thuộc vùng Duyên hải Bắc Trung Bộ với nhiều lợi thế trong phát triển du lịch nhưng vẫn chưa thể phát huy hết những tiềm năng phát triển du lịch. Bài viết phân tích sự cần thiết của liên kết vùng trong phát triển du lịch, những thành công và hạn chế trong phát triển du lịch gắn với liên kết vùng từ đó, đề xuất một số giải pháp cho tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới.
5 Nhân tố tác động đến sự hài lòng trong công việc của nhân viên khách sạn tại Đà Nẵng / Võ Thị Thúy Hồng // .- 2024 .- Số 827 - Tháng 6 .- Tr. 161-163 .- 910
Để xác định những yếu tố nào đang tác động đến sự hài lòng của nhân viên làm việc kháchsạn và mức độ tác động của các yếu tố đó, nghiên cứu này khảo sát thực tế lực lượng lao động đang làm việc tại các khách sạn từ 04 đến 05 sao tại TP. Đà Nẵng. Kết quả nghiêncứu chỉ ra các yếu tố tác động bao gồm: (1) Bản chất công việc; (2) Lãnh đạo; (3) Thu nhập, phúc lợi; (4) Cơ hội thăng tiến; (5) Tính đồng đội. Kết quả này có thể làm tài liệu tham khảo cho các doanh nghiệp kinh doanh khách sạn, từ đó xây dựng các giải pháp, chiến lược trong quản trị và phát triển hoạt động kinh doanh khách sạn của doanh nghiệp mình.
6 Tác động từ đại dịch covid-19 đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại tại Thừa Thiên Huế / Nguyễn Thị Thanh Huyền // .- 2024 .- Số 827 - Tháng 6 .- .- 332.01
Bài viết nghiên cứu tác động của COVID-19 đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Nghiên cứu đã đề xuất sử dụng kết hợp 2 phương pháp thẻ điểm cân bằng (BSC) và phân tích bao dữ liệu (DEA) làm cơ sở để lựa chọn các biến đầu vào và đầu ra với 5 biến được xác định là: Mức độ trang bị kỹ thuật/lao động, Chi nhân viên bình quân (đóng vai trò đầu vào), Thị phần tín dụng, % tăng lợi nhuận, % giảm tỷ lệ nợ xấu (đóng vai trò đầu ra). Bên cạnh đó, nghiên cứu còn kết hợp sử dụng chỉ số Malmquist để đo lường thay đổi hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn 2017-2022, giai đoạn trước và trong đại dịch COVID-19. Kết quả nghiên cứu cho thấy, đại dịch này đã có tác động tiêu cực đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại trên địa bàn.
7 Nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hệ thống thông tin kế toán trong các doanh nghiệp thương mại tại TP. Hồ Chí Minh / Phan Thị Lan Phương // .- 2024 .- Số 827 - Tháng 6 .- Tr. 168-171 .- 657
Nghiên cứu này thực hiện nhằm xác định và đo lường các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hệ thống thông tin kế toán của các doanh nghiệp thương mại tại TP. Hồ Chí Minh. Nghiên cứu thực hiện phân tích 204 mẫu khảo sát tại các doanh nghiệp thương mại tại TP. Hồ Chí Minh thông qua phương pháp nghiên cứu kết hợp định tính và định lượng. Kỹ thuật phân tích bao gồm thống kê mô tả, kiểm tra độ tin cậy thang đo, phân tích EFA, hồi quy tuyến tính. Kết quả cho thấy, có 5 nhân tố có tác động tích cực đến chất lượng hệ thống thông tin kế toán của các doanh nghiệp thương mại tại TP. Hồ Chí Minh, gồm: Nhận thức của nhà quản lý; Cơ cấu tổ chức; Trình độ nhân viên kế toán; Hệ thống kiểm soát nội bộ; Văn hóa tổ chức. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đưa ra một số chính sách nhằm nâng cao chất lượng hệ thống thông tin kế toán của các doanh nghiệp thương mại.
8 Yếu tố thuế đối với hành vi mua hàng nhập khẩu của người tiêu dùng tại TP. Hồ Chí Minh / Lê Thị Ngọc Tú, Hồ Trần Quốc Hải // .- 2024 .- Số 827 - Tháng 6 .- Tr. 172-176 .- 657
Nghiên cứu này tập trung phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua hàng nhập khẩu của người tiêu dùng tại TP. Hồ Chí Minh, đặc biệt là vai trò của yếu tố thuế. Nhóm tác giả đã tiến hành khảo sát bằng cách thu thập phiếu trả lời từ 448 cá nhân đang sinh sống và làm việc tại TP. Hồ Chí Minh, thường mua các hàng hóa nhập khẩu. Kết quả phân tích định lượng thông qua mô hình cấu trúc tuyến tính PLS-SEM bằng phần mềm SmartPLS cho thấy, sự hiện diện của các yếu tố, bao gồm: Nhận thức cá nhân, ý định mua hàng nhập khẩu, yếu tố nhân khẩu học và nguồn gốc xuất xứ, đều ảnh hưởng tích cực đến quyết định mua hàng nhập khẩu. Kết quả nghiên cứu là cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu dùng hàng hóa xuất nhập khẩu tại TP. Hồ Chí Minh hiện nay.
9 Nhân tố tác động đến hiệu quả công việc của nhân viên tại các doanh nghiệp du lịch ở TP. Hồ Chí Minh / Huỳnh Minh Tâm // .- 2024 .- Số 827 - Tháng 6 .- Tr. 177-180 .- 658
Nghiên cứu nhằm khám phá tác động gián tiếp của quản trị nguồn nhân lực (tiền lương, đánh giá thành tích, đào tạo và phát triển, tuyển dụng), lãnh đạo chuyển đổi, văn hoá doanh nghiệp vào hiệu quả công việc của nhân viên các doanh nghiệp du lịch ở TP. Hồ Chí Minh qua trung gian sự hài lòng công việc. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng phân tích cấu trúc của các nhóm nhân tố định tính gồm giới tính, độ tuổi, trình độ, thâm niên làm việc. Kết quả cho thấy, tất cả các giả thuyết đặt ra đều được chấp nhận.
10 Cam kết khách hàng trong trách nhiệm xã hội doanh nghiệp và tài sản thương hiệu / Phùng Tuấn Thành, Lê Đình Hạc, Trần Văn Đạt // .- 2024 .- Số 827 - Tháng 6 .- Tr. 181-184 .- 658
Bài viết này nghiên cứu tác động của trách nhiệm xã hội doanh nghiệp với tài sản thương hiệu (TSTH), bao gồm cả trực tiếp và gián tiếp cũng như vai trò điều tiết của sự cam kết của khách hàng (CKKH). Qua khảo sát với 510 khách hàng từ 25 tuổi trở lên, có thu nhập từ 25 triệu VND/tháng trở lên thường xuyên sử dụng dịch vụ khách sạn tại 20 khách sạn 4 sao và 5 sao tại TP. Hồ Chí Minh, bằng mô hình PLS-SEM. Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ tích cực trực tiếp giữa trách nhiệm xã hội doanh nghiệp và tài sản thương hiệu, đồng thời cũng khẳng định mối quan hệ trung gian tích cực của cam kết khách hàng và vai trò điều tiết của sự tham gia của khách hàng.