CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

  • Duyệt theo:
1 Hoạt động tập kết chuyển quân tại Cao Lãnh năm 1954 / Lê Đình Trọng, Nguyễn Ngọc Anh Thư, Bùi Phước Vinh // .- 2023 .- Tập 12 - Số 9 .- Tr. 112 - 120 .- 959
Sau thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, Hiệp định Genève được ký kết, nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền, lấy Vĩ tuyến 17 làm ranh giới quân sự tạm thời. Việc đình chiến quy định quân đội hai bên ngừng bắn, quân đội cách mạng phải tập kết ra Bắc, còn quân đội Pháp phải tập kết vào Nam, sau hai năm, sẽ bắt đầu tổng tuyển cử và thống nhất lại đất nước... Cao Lãnh lúc bấy giờ là một trong ba điểm tập kết chuyển quân ra Bắc, có thời gian 100 ngày chuẩn bị tập kết và chuyển quân. Trong thời gian này, quân dân Cao Lãnh đã tổ chức nhiều hoạt động quan trọng như: xây lại mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, xây dựng bia tưởng niệm, dạy học,… tạo tiếng vang lớn, giúp cho vững lòng hơn đối với cả người đi và người ở lại, khiến họ vững tin đấu tranh xây dựng, vun đắp cho cách mạng Việt Nam nói chung, ở Cao Lãnh nói riêng.
2 Nghiên cứu và thử nghiệm robot di động bám quỹ đạo dùng giải thuật Pure Pursuit thích nghi / Nguyễn Ngọc Tuấn // .- 2023 .- Vol 2 - 04(08) .- Tr. 2 - 15 .- 621
Tập trung vào nghiên cứu mô hình động học và triển khai giải thuật Pure Pursuit thích nghi lên mô hình robot di động hai bánh độc lập. Giải thuật được mô phỏng bằng phần mềm MATLAB/Simulink để đánh giá hiệu suất bám quỹ đạo thông qua các trường hợp khi thay đổi giá trị độ dài tiêu điểm và vận tốc. Kết quả mô phỏng được tổng hợp và đánh giá để làm cơ sở để đề xuất bộ điều khiển Pure Pursuit thích nghi vận tốc nhằm nâng cao hiệu suất của bộ điều khiển. Sau đó nhóm tác giả triển khai thiết kế và chế tạo một robot di động để đánh giá hiệu suất bám quỹ đạo của robot ở môi trường thực tế.
3 Nghiên cứu việc sử dụng marketing qua mạng xã hội và những tác động của nó đến kết quả hoạt động kinh doanh : trường hợp các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ tại Đà Nẵng / Lê Thị Kim Tuyết, Nguyễn Trang Hoàng Ái, Nguyễn Hữu Chiết // .- 2023 .- Vol 2 - 04(08) .- Tr. 36 - 57 .- 658
Xác định các yếu tố giúp cho doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ (SMEs) tại Đà Nẵng áp dụng marketing truyền thông qua mạng xã hội (SMM) và cách thức để cải thiện hiệu quả hoạt động kinh doanh của họ. Mô hình nghiên cứu được tiếp cận dựa trên hai lý thuyết về sự chấp nhận công nghệ mới là mô hình TAM và UTAUT. Dữ liệu được thu thập bằng hình thức khảo sát trực tiếp và online, đối tượng khảo sát là các nhà quản lý và nhân viên tại các SMEs. Với 187 phiếu hợp lệ đã được đưa vào phân tích và kiểm định giả thuyết bằng mô hình cấu trúc tuyến tính SEM. Kết quả nghiên cứu chỉ ra có bốn nhân tố tác động đến SMM gồm: sự cảm nhận về hữu ích, sự cảm nhận về dễ sử dụng, các điều kiện thuận lợi và tính tương thích. Và theo đó SMM tác động đến hiệu quả hoạt động của các SMEs. Nghiên cứu cũng đã đề xuất một số kiến nghị ứng dụng SMM cho các SMEs tại Đà Nẵng.
4 Tác động của truyền miệng điện tử (eWOM) đến ý định mua hàng trực tuyến của thế hệ Z tại Đà Nẵng / Lê Văn Dũng, Vũ Huỳnh Mai Vi, Hà Anh Phương // .- 2023 .- Vol 2 - 04(08) .- Tr. 58 - 75 .- 621
Xác định ảnh hưởng của truyền miệng điện tử (eWOM) đến ý định mua hàng trực tuyến của thế hệ Z tại Đà Nẵng. Dữ liệu được thu thập bằng hình thức khảo sát trực tuyến và trực tiếp với ba đối tượng chính là người đi làm, sinh viên và học sinh. Với 350 quan sát hợp lệ đã được sử dụng để kiểm định các mối quan hệ thông qua mô hình cấu trúc (SEM). Kết quả của bài nghiên cứu cho thấy các giả thuyết đều được chấp nhận, có ý nghĩa về mặt thống kê, góp phần chứng minh, mở rộng các giả thuyết trước đây và phù hợp với tình hình thực tế. Cụ thể, chất lượng eWOM, sự tin cậy eWOM, kiến thức trải nghiệm và sự quan tâm của người tiêu dùng là các yếu tố chính tác động đến sự chấp nhận eWOM. Từ đó, sự chấp nhận eWOM có ảnh hưởng đến ý định mua hàng trực tuyến thông qua thái độ đối với hành vi, chuẩn mực chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi. Nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp ứng dụng trong thực tiễn nhằm giúp các doanh nghiệp nâng cao ý định mua hàng trực tuyến của thế hệ Z. Hơn nữa, đề xuất ứng dụng khởi nghiệp Evisi Young và mở ra hướng nghiên cứu trong tương lai.
5 Những yếu tố tác động đến ý định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động trong giai đoạn dịch COVID-19 / Nguyễn Tấn Hải, Nguyễn Thị Thanh Trúc, Lê Thị Hồng Thúy, Lê Nhã Uyên // .- 2023 .- Vol 2 - 04(08) .- Tr. 76 - 97 .- 340
Dưới ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 vừa qua, tình trạng người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động ngày càng nhiều, điều này làm ảnh hưởng đến nguồn lực lao động và khả năng sản xuất, kinh doanh trong và sau đại dịch. Nghiên cứu hiện tại áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến ý định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng tất cả 4 nhân tố bao gồm: nhận thức về sự nguy hiểm của dịch COVID-19, thái độ của người lao động, chuẩn chủ quan và kiểm soát hành vi có tác động tích cực đến ý định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng người lao động có bệnh nền và người lao động có nhận thức pháp luật thấp có ý định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật cao hơn. Từ các kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả đã đề xuất một số kiến nghị và chính sách cho các cơ quan chức năng và các công ty, doanh nghiệp để góp phần giữ chân người lao động.
6 Hai bản tấu thư của Phúc Khang An và câu trả lời của Lê Quýnh ở Trung Hoa / Nguyễn Duy Chính // .- 2023 .- Vol 2 - 04(08) .- Tr. 98 - 119 .- 959
Để vô hiệu hóa các nhóm thân Lê muốn nổi lên chống lại triều đình Tây Sơn, Phúc Khang An (Tổng đốc Lưỡng Quảng) đã giả vờ mời họ sang Trung Hoa “bàn quốc sự” và mưu tính việc tiến quân sang An Nam lần thứ hai. Khi thành phần đầu não của lực lượng nhà Lê đến Quảng Tây, Phúc Khang An thông báo triều đình Tây Sơn đã được nhà Thanh công nhận và khuyên những bầy tôi nhà Lê hãy cắt tóc và đổi sang y phục nhà Thanh để được an tháp. Lê Quýnh thấy mình bị đánh lừa nên đã trả lời: “Đầu tôi có thể chặt nhưng tóc không thể cắt, da tôi có thể lột nhưng áo không thể đổi. Chúng tôi sống làm người An Nam, chết làm ma An Nam”.
7 Ảnh hưởng của lo âu trí tuệ nhân tạo đến ý định học tập trí tuệ nhân tạo của sinh viên khối ngành Kinh tế tại Hà Nội / Nguyễn Hồng Châu Linh, Nguyễn Thúy Quỳnh, Chu Thị Như Quỳnh // .- 2024 .- Số 5 - Tháng 5 .- Tr. 17-23 .- 370
Nghiên cứu tập trung khai thác các khía cạnh của trạng thái tâm lý lo âu trí tuệ nhân tạo hay lo âu AI (Arrtificial Intelligence Anxiety - AIA) và xác định mức độ ảnh hưởng của từng khía cạnh đối với ý định học tập AI của sinh viên khối ngành kinh tế tại Hà Nội. Các thành tố để lựa chọn phân tích lo âu AI bao gồm: Lo âu học tập AI; Lo âu cấu hình AI; Lo âu thay thế công việc; Mù kỹ thuật xã hội.
8 Sự kiện ngày 19 tháng 01 năm 1974 và bài học kinh nghiệm lịch sử về bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam trong bối cảnh hiện nay / Ngô Văn Minh // .- 2024 .- Số 1 (189) .- Tr. 82 - 91 .- 959
Bài viết nhằm điểm lại chuỗi sự kiện Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, từ việc nước này bành trướng trên bản đồ, lên tiếng tranh chấp chủ quyền đến lén lút chiếm đóng bất hợp pháp, cho tàu thuyền giả dạng đánh cá dò thám để khi có cơ hội thì sẵn sàng dùng vũ lực đánh chiếm. Nhìn nhận lại các sự kiện và mưu đồ của Trung Quốc, trong công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay chúng ta cần phải chủ động, bình tĩnh và ngăn ngừa nguy cơ xung đột trên biển từ sớm, từ xa, không để rơi vào tình huống bị động, bất ngờ; phải đặc biệt coi trọng vấn đề an ninh, chủ quyền biển đảo nhất là ở những thời điểm nhạy cảm, phức tạp và phải bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, lợi ích quốc gia dân tộc trên các vùng biển đảo của Tổ quốc bằng chính nội lực của đất nước kết hợp với tính chính nghĩa và sức mạnh của thời đại.
9 Việc công nhận chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam qua các ấn bản quốc tế tại Anh, Đức, Ấn Độ, Pháp, Bohemia, Nga, It alia, Tây Ban Nha ở thế kỷ XIX / Nguyễn Quang Trung Tiến // .- 2024 .- Số 1 (189) .- Tr. 55 - 81 .- 959
Từ quá trình xác lập chủ quyền lịch sử khai thác đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thời các chúa Nguyễn ở thế kỷ XVII thông qua hoạt động của các đội Hoàng Sa và Bắc Hải; đến năm 1816, vua Gia Long của vương triều Nguyễn tiến hành chiếm hữu chính thức về mặt nhà nước đối với quần đảo Hoàng Sa thông qua việc phái đội thủy quân của triều đình Huế đi cùng đội Hoàng Sa ra xem xét và xác lập chủ quyền của Việt Nam tại đó. Sự kiện tuyên bố chiếm hữu chính thức về mặt nhà nước của triều Nguyễn đối với quần đảo Hoàng Sa từ năm 1816 đã được cộng đồng quốc tế công nhận rộng rãi thông qua nhiều ấn bản tại các nước Anh, Đức, Ấn Độ, Pháp, Bohemia, Nga, Italia, Tây Ban Nha mà không có bất kỳ quốc gia liên quan nào lên tiếng phản đối trong suốt thế kỷ XIX. Đó là những cơ sở pháp lý quốc tế vững chắc góp phần phục vụ đắc lực cho công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa Trường Sa nói riêng, biển đảo của Việt Nam nói chung trong hiện tại.
10 Tạ biểu của vua Chiêu Thống sau khi được phong An Nam Quốc Vương / Nguyễn Duy Chính // .- 2024 .- Số 1 (189) .- Tr. 45 - 54 .- 959
Ngày 22 tháng Một năm Càn Long 53 (19/12/1788) Tôn Sĩ Nghị mang sắc ấn vào phong cho Lê Duy Kỳ làm An Nam quốc vương. Mười ngày sau, Mồng 2 tháng Chạp năm Càn Long 53 (28/12/1788), vua Chiêu Thống gửi tờ biểu đầu tiên lên Thanh đình tạ ơn vua Càn Long đã sai người đem quân sang giúp ông khôi phục kinh thành. Đây cũng là văn bản đầu tiên của Lê Duy Kỳ gửi sang Trung Hoa, có đóng dấu An Nam quốc vương mới được ban. Tuy sắc thư phong vương của vua Thanh và chiếc ấn bạc mạ vàng được gửi sang An Nam cùng lá thư tạ ơn của Lê Duy Kỳ không có giá trị gì trong lịch sử nhưng cũng là dấu tích một thời, có giá trị tài liệu tiên nguyên (primary source) nên bài viết bổ túc những phần bị bỏ trống trong một giai đoạn nhiễu nhương mà ít người để tâm đến.