This research was conducted to evaluate the effectiveness and safety of LX1 cream in the clinical treatment of facial contusions. The study was conducted on 66 patients diagnosed with facial contusions, divided into 2 groups: Control group with patients treated according to the anti-inflammatory, analgesic and anti-edema protocol currently used in the department. Study group with patients treated according to the anti-inflammatory, analgesic and anti-edema protocol currently used in the department combined with the application of LX1 cream.
Biliary atresia (BA) is a rare hepatobiliary disorder. Stem cell therapy is expected to serve as a supportive treatment to slow fibrosis progression. This study aimed to assess the therapeutic efficacy and the safety of the Kasai procedure combined with autologous bone marrow stem cell (ABMSC) infusion. From May 2021 to December 2024, 82 pediatric BA patientswho underwent the combined treatment at Vietnam National Children’s Hospital were enrolled. The mean age at surgery was 76.8 ± 12.6 days. No severe complication occurred during stem cell harvesting or follow-up time frame. T
Trách nhiệm hình sự là một trong những nội dung quan trọng của chính sách pháp luật hình sự của mọi quốc gia, được thể hiện cả trong hệ thống tri thức khoa học về trách nhiệm hình sự, trong học thuyết quốc gia về phòng, chống tội phạm và trong hoạt động thực tiễn phòng, chống tội phạm. Bài viết này bước đầu tìm hiểu cách tiếp cận chính sách về trách nhiệm hình sự trong giai đoạn phát triển mới ở nước ta.
Pháp luật thi hành án dân sự đã có quy định riêng về cưỡng chế đối với tài sản là quyền sở hữu trí tuệ, tuy nhiên, các quy định này mới chỉ mang tính nguyên tắc, chưa có các hướng dẫn cụ thể để triển khai áp dụng trên thực tế. Trong khi đó, tài sản là quyền sở hữu trí tuệ đang trở thành một tài sản có giá trị thuộc sở hữu của người phải thi hành án. Ngoài ra, các bản án về quyền sở hữu trí tuệ cũng ngày càng phổ biến hơn nhưng việc tổ chức thi hành một số nghĩa vụ đặc thù vẫn còn vướng mắc, khó khăn tại các cơ quan thi hành án dân sự. Bài viết tập trung phân tích thực trạng quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án đối với quyền sở hữu trí tuệ và thực tiễn thi hành biện pháp cưỡng chế thi hành án có liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, từ đó, chỉ ra các khó khăn, vướng mắc mà cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên có thể gặp trong quá trình cưỡng chế thi hành án đối với quyền sở hữu trí tuệ và đề xuất giải pháp khắc phục.
Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra làm cản trở việc thực hiện nghĩa vụ của một hoặc các bên. Nếu chủ thể vi phạm nghĩa vụ xuất phát từ sự kiện này thì có thể được miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm. Chính vì vậy, việc xác định một sự kiện được xem là bất khả kháng có ý nghĩa rất quan trọng để xác định hậu quả pháp lý của các bên. Trong thực tiễn xét xử hiện nay, việc xác định một sự kiện được xem là bất khả kháng và đặc biệt là việc xử lý hậu quả pháp lý của sự kiện này vẫn còn nhiều bất cập. Trong phạm vi bài viết, tác giả phân tích những hạn chế, vướng mắc của các quy định pháp luật về sự kiện bất khả kháng khi áp dụng vào thực tiễn xét xử và kiến nghị những giải pháp để hoàn thiện những hạn chế, vướng mắc này.
Công tác xây dựng pháp luật về an ninh, trật tự trong thời gian qua luôn được quan tâm sửa đổi và hoàn thiện. Bài viết đã khái lược những kết quả đạt được trong công tác xây dựng pháp luật ở nước ta trong thời gian qua đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế, bất cập về an ninh trật tự, từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xây dựng pháp luật đảm bảo an ninh trật tự đáp ứng yêu cầu của tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam trong thời gian tới.
Giới thiệu: Pyrazinamid (PZA) có vai trò lớn trong phác đồ chống lao, cần được tối ưu hóa cách sử dụng. Nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định khả năng đạt được các đích dược động học/dược lực học (PK/PD) của PZA trong điều trị lao phổi. Phương pháp: 516 mẫu máu của 129 bệnh nhân lao phổi không đa kháng thuốc được thu thập nhằm ghi nhận dữ liệu nồng độ - thời gian của PZA, từ đó xây dựng mô hình dược động học quần thể và mô phỏng Monte Carlo để xác định tỷ lệ đạt các đích PK/PD tại các chế độ liều dựa trên thể trọng và cân nặng trừ mỡ (FFM). Kết quả: Tỷ lệ đạt các đích PK/PD tăng dần khi tăng liều. Với MIC≥50 μg/ml, cần liều 40 mg/kg để trên 80% bệnh nhân đạt đích diện tích dưới đường cong/nồng độ ức chế tối thiểu (AUC/MIC); với liều 30 mg/kg hoặc 35 mg/kg, FFM >90% bệnh nhân đạt đích AUC0-24 và Cmax. Liều dựa trên FFM cho thấy hiệu quả tương tự so với các chế độ dựa trên thể trọng hiện nay. Kết luận: Các chế độ liều tính theo FFM cải thiện tỷ lệ các đích PK/PD của PZA.
Mô dây thần kinh đồng loài bảo quản lạnh sâu đang được nghiên cứu và sử dụng trong ghép tái tạo dây thần kinh bị tổn thương, khắc phục những hạn chế của mô ghép tự thân. Nghiên cứu này nhằm mô tả đặc điểm thu hồi, xử lý, bảo quản, phân phối mô dây thần kinh đồng loài bảo quản lạnh sâu tại Ngân hàng Mô, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả, tiến cứu. Kết quả cho thấy, 32 mô dây thần kinh được thu nhận từ 8 người hiến chết não có độ tuổi trung bình là 34±13 (từ 16 đến 50 tuổi). 100% người hiến mô dây thần kinh đều âm tính với HIV, HBV, HCV. 32/32 (100%) mô dây thần kinh thu nhận có màu sắc trắng ngà và nguyên vẹn, không bị biến sắc hay tưa rách, đứt đoạn. Trong đó, có 16 mô (50%) là dây thần kinh hiển với chiều dài từ 210 đến 320 mm và 16 mô (50%) là thần kinh chày với chiều dài từ 100 đến 380 mm. Tất cả mô dây thần kinh có kết quả nuôi cấy vi sinh âm tính. Ba mô dây thần kinh được ghép cho bệnh nhân có cấu trúc sợi bình thường, chưa thoái hóa sau rã đông.
Các chiến lược y tế từ xa đã được áp dụng trên thế giới để hỗ trợ nhóm người có nguy cơ tim mạch cao, nhưng hiệu quả của những can thiệp này trong việc cải thiện nguy cơ tim mạch ở các bệnh nhân tại Việt Nam vẫn chưa rõ ràng. Nghiên cứu này nhằm đánh giá kết quả kiểm soát yếu tố nguy cơ tim mạch và chỉ số khối cơ thể ở người có nguy cơ cao bằng giải pháp y tế từ xa. 112 bệnh nhân được chia hai nhóm: Nhóm can thiệp nhận một buổi tư vấn ban đầu và được hỗ trợ qua điện thoại trong ba tháng; nhóm chứng chỉ nhận một buổi tư vấn. Kết quả cho thấy, tuổi trung bình 56,8±6,8, 69% là nữ. Các chỉ số về cân nặng (-1,232 kg; p<0,001), chu vi vòng eo (-0,789 cm; p=0,02), chỉ số khối cơ thể (-0,398 kg/m2; p<0,001), huyết áp tâm trương (-1,233 mmHg; p=0,03), cholesterol toàn phần (-0,196 mmol/l; p=0,02) và lipoprotein trọng lượng phân tử thấp (LDL) cholesterol (-0,165 mmol/l; p=0,005) ở nhóm can thiệp đều giảm hơn nhóm chứng sau 12 tháng. Như vậy, ở những người lớn tuổi có nguy cơ tim mạch cao, giải pháp y tế từ xa với hỗ trợ qua điện thoại trong vòng 3 tháng đã mang lại những cải thiện về các yếu tố nguy cơ tim mạch. Những cải thiện này kéo dài sau một năm, cho thấy y tế từ xa có hiệu quả trong việc kiểm soát nguy cơ tim mạch.
Trong một nghiên cứu mới đăng trên Tạp chí Molecular Ecology [1], các nhà khoa học thuộc Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam và các cộng sự thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Hungary và Bảo tàng Quốc gia về Lịch sử Tự nhiên, Cộng hoà Pháp đã công bố những phát hiện mới về sự đa dạng và quá trình phát sinh chủng loại của các chủng virus corona thuộc phân chi Sarbecovirus thu thập từ các quần thể dơi móng ngựa (Rhinolophus sp.) ở Việt Nam và các nước lân cận. Các dữ liệu khoa học này giúp chúng ta hiểu thêm về nguồn gốc phát sinh của hai chủng virus corona gây ra hai đại dịch (SARS-CoV-1 và SARS-CoV-2), đồng thời cung cấp cơ sở cho việc xây dựng và triển khai các hoạt động giám sát, phòng ngừa sự bùng phát hoặc tái bùng phát các dịch bệnh do virus corona liên quan đến dơi trong tương lai.