CSDL Bài trích Báo - Tạp chí
chủ đề: Bệnh nhân
1 Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng chọn lựa thuốc sinh học của bác sĩ và bệnh nhân trong điều trị bệnh vảy nến mức độ trung bình nặng / Nguyễn Thị Hồng Chuyên, Nguyễn Thị Mai Xuân, Văn Thế Trung // .- 2025 .- Số 3 .- Tr. 17-23 .- 610
Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng chọn lựa thuốc sinh học của bác sĩ và bệnh nhân trong điều trị bệnh vảy nến mức độ trung bình - nặng. Thuộc tính có tầm quan trọng tương đối (Relative importance – RI) cao nhất ở nhóm bệnh nhân là chi phí (RI: 29,3%) và ở nhóm bác sĩ là hiệu quả dài hạn (RI: 39,3%). Bệnh nhân quan tâm tần suất điều trị (RI: 19,5%) và tỉ lệ nhiễm trùng nghiêm trọng (RI: 14,6%) hơn so với bác sĩ. Thuộc tính ít ảnh hưởng đến lựa chọn của bệnh nhân và bác sĩ là hiệu quả duy trì sau ngưng thuốc và hiệu quả ngắn hạn. Chi phí điều trị là thuộc tính quan trọng nhất đối với bệnh nhân vảy nến ở Việt Nam, trong khi hiệu quả dài hạn là thuộc tính được ưu tiên nhất khi bác sĩ lựa chọn thuốc sinh học. Kết quả nghiên cứu góp phần đưa ra quyết định chung giữa bác sĩ và bệnh nhân nhằm cải thiện sự tuân thủ của bệnh nhân cũng như hiệu quả điều trị.
2 Giá trị tiên lượng của chỉ số ABIC ở bệnh nhân xơ gan do rượu / Phan Trung Nam, Trần Thị Phương Ly // Y dược học (Điện tử) .- 2025 .- Số 3 .- Tr. 120-125 .- 610
Khảo sát chỉ số ABIC và giá trị tiên lượng một số biến chứng và tử vong của chỉ số này ở bệnh nhân xơ gan rượu trong thời gian nằm viện, 1 tháng và 3 tháng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 117 bệnh nhân xơ gan mất bù do rượu nhập viện điều trị, theo dõi tại Bệnh viện Trường Đại học Y - Dược Huế và Bệnh viện Trung ương Huế từ tháng 5/2021 - 5/2023. Đánh giá chỉ số ABIC khi nhập viện, phân tích diện tích dưới đường cong (AUC) dự đoán biến cố xơ gan của bệnh nhân trong thời gian nằm viện, 1 tháng, 3 tháng. Kết quả: Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu 52,83 ± 8,10, tỷ lệ nam/nữ: 114/3. Chỉ số ABIC trung bình của bệnh nhân khi nhập viện là 7,16 ± 0,98, tỷ lệ nhóm nguy cơ cao và trung bình theo chỉ số ABIC lần lượt là 2,5% và 66,7%. Giá trị tiên lượng biến chứng gan thận của ABIC theo dõi trong vòng 1 tháng với AUC là 0,780, giá trị dự báo với điểm cắt 7,78 có độ nhạy 80,0% và độ đặc hiệu 77,7% (p = 0,034). Ở ba thời điểm theo dõi biến cố tử vong, chỉ có thời điểm theo dõi trong vòng 3 tháng, chỉ số ABIC có giá trị tiên lượng tử vong với AUC = 0,785, p=0,002, tốt hơn so với thang điểm CTP và MELD. Kết luận: Chỉ số ABIC có giá trị tiên lượng tử vong trong vòng 3 tháng khá tốt. Ngoài ra, chỉ số này có khả năng dự báo hội chứng gan thận trong vòng 1 tháng. Điểm số ABIC càng cao khả năng xảy ra các biến chứng và tử vong càng lớn.
3 Khảo sát tình hình bệnh nhân chấn thương hàm mặt điều trị nội trú tại Bệnh viện Trường Đại học Y - Dược Huế / Hoàng Minh Phương // .- 2025 .- Số 3 .- Tr. 65-72 .- 610
Chấn thương hàm mặt là một trong những loại chấn thương thường gặp và ảnh hưởng trực tiếp đến thẩm mỹ khuôn mặt, chức năng ăn nhai của người bệnh cũng như là chức năng giao tiếp. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu đánh giá đặc điểm lâm sàng và các yếu tố liên quan đến chấn thương hàm mặt và đánh giá kết quả điều trị các tổn thương vùng hàm mặt. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu trên 60 bệnh nhân chấn thương hàm mặt tại Khoa Tai Mũi Họng - Mắt - Răng Hàm Mặt, Bệnh viện Trường Đại học Y - Dược Huế từ tháng 10/2022 đến tháng 6/2023. Kết quả: Tỷ lệ nam/nữ: 5,67/1, thường gặp ở nhóm tuổi 18 - 39 tuổi (61,67%). Nguyên nhân chủ yếu là do tai nạn giao thông (85%). Vết thương phần mềm có 58 trường hợp (96,67%) trong đó vết thương đụng dập cao nhất chiếm 39,33%. Gãy xương vùng hàm mặt có 48 trường hợp, chủ yếu là gãy một xương đơn thuần trong đó gãy xương trong đó gãy xương gò má- cung tiếp chiếm tỉ lệ cao nhất 60,41%. Kết luận: Chấn thương hàm mặt thường gặp ở nam giới, nguyên nhân chủ yếu do tai nạn giao thông và thường phối hợp vừa vết thương phần mềm và gãy xương, đụng dập là vết thương phần mềm thường gặp và gãy xương gò má cung tiếp là loại gãy xương thường gặp nhất.
4 Nghiên cứu các yếu tố tiên lượng tử vong ở bệnh nhân xuất huyết não / Nguyễn Thành Công // Y dược học (Điện tử) .- 2025 .- Số 3 .- Tr. 79-85 .- 610
Xuất huyết não (XHN) là bệnh có tỷ lệ tử vong cao. Đối với những người còn sống, 70 - 80% gặp phải các di chứng nặng nề ảnh hưởng đến chức năng vận động và nhận thức. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu nghiên cứu: Mô tả các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, tỷ lệ tử vong và xác định các yếu tố tiên lượng liên quan đến tử vong ở bệnh nhân XHN điều trị nội trú. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân vào viện được chẩn đoán XHN theo hướng dẫn của Bộ Y tế tại khoa Lão và khoa Hồi sức tích cực chống độc từ 5/2024 đến 10/2024. Kết quả: Qua nghiên cứu 59 bệnh nhân XHN tuổi trung bình 66 ± 14,6, nam chiếm 71,2%. Tiền sử tăng huyết áp chiếm tỷ lệ cao nhất 64,4%. Khởi phát hôn mê (50,8%), đau đầu (40,7%), liệt khu trú bên trái (50,8%), liệt hai bên (15,3%). CTscan xuất huyết não, não thất chiếm tỷ lệ cao nhất 67,8%. Bệnh nhân tử vong 52,5%, sống ra viện 47,5% trong đó điểm mRS 0-2 chiếm 33,9%. Các yếu tố liên quan đến tử vong ở bệnh nhân XHN: Glasgow vào viện < 9 điểm (OR = 32,51 (95% CI: 4,37-241,82), P<0,01), HA tâm thu vào viện ≥ 180 mmHg (OR = 7,22 (95% CI: 1,18-44,16), P = 0,03), CTscan có XHN và não thất (OR = 11,64 (95% CI: 1,36 - 99,44), P = 0,03). Kết luận: Xuất huyết não là một bệnh có tỷ lệ tử vong cao, khởi phát đột ngột với hôn mê, liệt khu trú. Điểm Glasgow vào viện < 9, HA tâm thu vào viện ≥ 180 mmHg, CTscan với xuất huyết não thất là yếu tố tiên lượng tử vong ở bệnh nhân XHN.





