CSDL Bài trích Báo - Tạp chí
chủ đề: Phẫu thuật nội soi
1 Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi điều trị viêm mũi xoang mạn tính có bất thường phức hợp lỗ ngách / Nguyễn Nguyện, Hồ Mạnh Hùng, Trần Hữu Anh Tú // Y dược học (Điện tử) .- 2025 .- Số 3 .- Tr. 144-151 .- 610
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi mũi xoang điều trị viêm mũi xoang mạn tính có bất thường phức hợp lỗ ngách. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu ở 56 bệnh nhân viêm mũi xoang mạn tính có bất thường phức hợp lỗ ngách, được phẫu thuật nội soi mũi xoang từ tháng 2/2021 đến tháng 6/2023. Phương pháp nghiên cứu tiến cứu, mô tả, có can thiệp lâm sàng. Kết quả: Nam chiếm tỷ lệ 55,4%, nam 44,6%. Độ tuổi 16 - 45 gặp nhiều nhất, chiếm 59%. Triệu chứng cơ năng: chảy mũi gặp ở mọi trường hợp, nghẹt mũi 91,1%, nhức đầu 83,9%, giảm mất khứu giác 33,9%. Triệu chứng thực thể qua nội soi: tất cả đều có phù nề niêm mạc và bán tắc phức hợp lỗ ngách, dịch xuất tiết 96,4% và polyp mũi 37,5%. Hình thái bất thường phức hợp lỗ ngách chủ yếu là bất thường cuốn giữa 24,1%, tế bào Haller rất hiếm gặp chỉ 2,7%. Đánh giá kết quả chung điều trị sau phẫu thuật 3 tháng: tốt 67,9%, khá 28,5% và 3,6% kém là hai trường hợp có tái phát polyp. Không có trường hợp nào bị biến chứng nặng như tổn thương ống lệ tỵ, chảy dịch não tủy, chảy máu hậu nhãn cầu, song thị hay mù mắt. Kết luận: Phẫu thuật nội soi mũi xoang là phương pháp an toàn và hiệu quả để điều trị viêm mũi xoang mạn tính có bất thường phức hợp lỗ ngách.
2 Hiệu quả giảm đau của gây tê ống cơ khép kết hợp Dexamethason tĩnh mạch so với Morphin khoang dưới nhện sau phẫu thuật nội soi khớp gối / Vũ Đình Quân // Y dược học (Điện tử) .- 2025 .- Số 3 .- Tr. 105-111 .- 610
So sánh hiệu quả giảm đau của phương pháp gây tê ống cơ khép kết hợp với dexamethason tĩnh mạch so với morphin khoang dưới nhện, cũng như tác dụng không mong muốn của hai phương pháp. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, ngẫu nhiên có so sánh. Chín mươi hai bệnh nhân trên 18 tuổi, ASA I đến III, có chỉ định phẫu thuật nội soi khớp gối được phân bổ ngẫu nhiên vào hai nhóm. Tất cả bệnh nhân đều được gây tê tủy sống bằng bupivacain ưu trọng và fentanyl, truyền tĩnh mạch paracetamol 1 g mỗi 8 giờ sau phẫu thuật. Một nhóm được tiêm 100 mcg morphin vào khoang dưới nhện (nhóm M) và nhóm còn lại được gây tê ống cơ khép bằng levobupivacain 0,25% 20 mL và dexamethason 8 mg tiêm tĩnh mạch (nhóm S). Điểm số đau sau phẫu thuật khi nghỉ ngơi và vận động được đánh giá bằng thang điểm nhìn (VAS), tỷ lệ và thời điểm yêu cầu giải cứu đau đầu tiên, tác dụng không mong muốn, sự hài lòng của bệnh nhân, chất lượng hồi phục sau phẫu thuật cũng được đánh giá. Kết quả: Điểm VAS trung vị của cả hai nhóm đều nhỏ hơn hoặc bằng 3 tại các thời điểm nghiên cứu. Tỷ lệ yêu cầu giải cứu đau ở nhóm S (8,7%) và nhóm M (6,5%, p > 0,05). Thời gian trung bình đến khi yêu cầu lần giải cứu đầu tiên ở nhóm S (11,4 ± 3,5 giờ) và nhóm M (16,6 ± 2,6 giờ, p > 0,05). Có 39,1% bệnh bị buồn nôn và nôn, 37,0% bệnh nhân bị ngứa trong nhóm M, tỷ lệ này ở nhóm S không đáng kể lần lượt là 0% và 4,3%, p < 0,05. Tỷ lệ bí tiểu ở nhóm M và S lần lượt là 10,9% và 4,3%, p > 0,05. Không có trường hợp nào bị ức chế hô hấp ở cả hai nhóm. Mức độ hài lòng thấp hơn đáng kể ở nhóm M (34,8% rất hài lòng) khi so sánh với nhóm S (69,6% rất hài lòng, p < 0,05). Điểm QoR-15 ở nhóm S cao hơn nhóm M ở cả hai thời điểm 12 giờ và 24 giờ, p < 0,05. Kết luận: Cả hai phương pháp đều mang lại hiệu quả giảm đau tốt sau phẫu thuật nội soi khớp gối. Gây tê ống cơ khép kết hợp với dexamethason tĩnh mạch vượt trội hơn so với morphin khoang dưới nhện về tỷ lệ tác dụng không mong muốn, sự hài lòng của bệnh nhân và chất lượng hồi phục sau phẫu thuật.
3 Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân được điều trị sỏi đường mật bằng phẫu thuật nội soi / Cao Minh Tiệp, Phùng Thế Khang, Đặng Ngọc Giao, Lê Văn Lợi // Y học Việt Nam (Điện tử) .- 2025 .- Số 3 .- Tr. 184 - 189 .- 610
Nghiên cứu nhằm mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân sỏi đường mật điều trị bằng phẫu thuật nội soi kết hợp tán sỏi điện thủy lực tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ 01/2022 đến 06/2023. Đối tượng và phương pháp: Đối tượng gồm 39 được chẩn đoán sỏi đường mật. Phương pháp nghiên cứu mô tả kết hợp hồi cứu và tiến cứu. Kết quả: Bệnh gặp ở người có tuổi trung bình là 57,33 ± 15,51 tuổi (nhỏ nhất 19 và lớn nhất 82 tuổi), nhóm 60-79 tuổi chiếm tỷ lệ 41,0%, giới nữ chiếm tỷ lệ 59%, tỷ lệ nam/nữ: là 0,7/1. Đau hạ sườn phải gặp ở 100 % trường hợp, sốt gặp ở 35,9% trường hợp, vàng da gặp ở 30,8% trường hợp và tam chứng C-harcot gặp ở 30,8% trường hợp. Bạch cầu tăng ở 35,9% trường hợp, Neutrophil tăng ở 38,5% trường hợp. Billirubin toàn phần tăng ở 53,85% trường hợp, men SGOT tăng ở 64,1% trường hợp, SGPT tăng ở 66,7% trường hợp. Kích thước ống mật chủ trên siêu âm và CLVT/CHT tương đương nhau. Kết luận. Sỏi đường mật gặp nhiều ở nữ, lứa tuổi 60-79 tuổi. Lâm sàng gồm đau hạ sườn, sốt và vàng da. Xét nghiệm thấy tăng bạch cầu, enzym gan và bilirubin toàn phần.





