CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

chủ đề: Điều trị nội nha

  • Duyệt theo:
1 Hiệu quả diệt khuẩn Enterococcus faecalis của các dung dịch bơm rửa trong điều trị nội nha / Trần Duy Tùng // Y học thành phố Hồ Chí Minh (Điện tử) .- 2025 .- Số 3 .- Tr. 67-72 .- 610

Đánh giá hiệu quả kháng khuẩn Enterococcus faecalis của các dung dịch nano bạc AgNPs 62,5 ppm, Sodium hypoclorit 3% và Chlorhexidine 2 % trong bơm rửa nội nha. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 44 chân răng cối nhỏ hàm dưới một ống tủy được chuẩn hóa kích thước ống tủy tương đồng, hấp vô khuẩn, bít kín lỗ chóp. Hoạt hóa vi khuẩn đông khô E. faecalis, nuôi cấy 21 ngày trong các chân răng. Bơm rửa ống tủy các chân răng với dung dịch nước muối 0,9% (nhóm 1); AgNPs 62,5 ppm (nhóm 2); NaOCl 3 % (nhóm 3); CHX 2 % (nhóm 4), bơm rửa 2ml dung dịch trong 1 phút. Sau đó, lấy mẫu vi khuẩn trong ống tủy để xét nghiệm Real-time PCR xác định chỉ số Ct. Kết quả: Chỉ số Ct trung bình các nhóm 1, 2, 3, 4 lần lượt là 21,82; 22,33; 25,94 và 24,95. Chỉ số Ct ở nhóm bơm rửa nước muối khác biệt có ý nghĩa thống kê với các nhóm bơm rửa NaOCl 3 %, CHX 2 % (p <0,05), nhưng không khác nhóm bơm rửa nano bạc. Kết luận: Bơm rửa nội nha với 2ml dung dịch NaOCl 3 % hoặc CHX 2 % trong 1 phút có hiệu quả diệt khuẩn E. faecalis tốt hơn dung dịch NaCl 0,9% hoặc AgNPs 62,5 ppm.

2 Độ bền kháng gãy của răng hàm nhò thứ nhất hàm trên đã điều trị nội nha được phục hồi bằng composite và chốt sợi / Nguyễn Thị Minh Huyền, Nguyễn Thị Hạnh Lê Hưng, Lưu Minh Quang, Đinh Diệu Hồng // .- 2025 .- Số 3 .- Tr. 18-24 .- 610

Nghiên cứu so sánh độ bền kháng gãy và khảo sát kiểu nứt gãy của răng hàm nhỏ thứ nhất hàm trên đã điều trị nội nha, phục hồi bằng composite và chốt sợi ở các nhóm khác nhau. Nghiên cứu in vitro trên 20 răng hàm nhỏ thứ nhất hàm trên (2 ống tủy) nhể vì lý do chình nha ở người dưới 30 tuổi và được chia thành 4 nhóm (n = 5): nhóm 1 còn đủ thành và nhóm 2 mất một thành được phục hồi bằng composite; nhóm 3 mất hai thành và nhóm 4 không còn thành, được phục hồi bằng composite và chốt sợi. Mau được đo lực nén đến khi nứt gãy, ghi nhận lực tối đa và kiểu nứt. Phân tích với kiểm định ANOVA trên SPSS 25 cho thấy giá trị lực nén của nhóm 1, 2, 3 tương đương nhau và cao nhất ờ nhóm 4 (2272,88 N) (p = 0,003). Mức độ nghiêm trọng nứt gãy tăng khi số lượng thành còn lại của răng giảm. Các vết nứt gãy chủ yếu dọc theo phần tiếp xúc giữa chốt và composite hoặc giữa composite với cẩu trúc còn lại thân răng.