CSDL Bài trích Báo - Tạp chí
chủ đề: Sức khỏe tâm thần
1 Đánh giá tác động của đào tạo nâng cao năng lực đến sự tự tin trong chăm sóc sức khoẻ tâm thần cho người bệnh ung thư của điều dưỡng viên / Nguyễn Thị Hoa Huyền, Nguyễn Châu Anh, Nguyễn Ngọc Bảo Quyên, Phạm Thị Ngọc Thu, Hạc Huyền My // Y học cộng đồng (Điện tử) .- 2025 .- Số 04 .- Tr. 203-208 .- 610
Đánh giá sự cải thiện mức độ tự tin thực hành của điều dưỡng viên trong chăm sóc sức khỏe tâm thần cho người bệnh mắc ung thư sau khi tham gia chương trình đào tạo nâng cao năng lực. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu bán thực nghiệm có so sánh trước sau được thực hiện với 170 điều dưỡng. Kết quả: Mức độ tự tin trong thực hành về chăm sóc sức khỏe tâm thần, sử dụng công cụ sàng lọc của điều dưỡng được cải thiện sau can thiệp và có ý nghĩa thống kê. Trong đó, mức độ tự tin trong quản lý lo âu cải thiện nhiều nhất, từ 2,59 ± 0,93 lên 2,84 ± 0,94. Tỷ lệ nhận thức của điều dưỡng viên về dịch vụ sức khỏe tâm thần chuyên khoa tăng sau chương trình đào tạo. Kết luận: Chương trình đào tạo nâng cao năng lực đã cải thiện đáng kể mức độ tự tin thực hành chăm sóc sức khỏe tâm thần của điều dưỡng viên. Việc tăng cường đào tạo và sử dụng công cụ sàng lọc là cần thiết để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe toàn diện cho người bệnh ung thư.
2 Thực trạng sức khỏe tâm thần của học sinh THPT tại Hà Nội : nghiên cứu cắt ngang về trầm cảm, lo âu và căng thẳng / // Y học cộng đồng (Điện tử) .- 2025 .- Số 10 .- Tr. 79 - 86 .- 610
Xác định tỷ lệ trầm cảm, lo âu và căng thẳng ở học sinh trung học phổ thông tại Thành phố Hà Nội và một số yếu tố liên quan. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 501 học sinh THPT tại Hà Nội từ tháng 8 đến tháng 12 năm 2023. Dữ liệu được thu thập bằng bảng hỏi trực tuyến gồm thông tin nhân khẩu học và thang đo DASS-21. Phân tích dữ liệu sử dụng SPSS 27.0 với thống kê mô tả, ANOVA, t-test, kiểm định khi bình phương, và hồi quy đa biến. Kết quả: Tỷ lệ học sinh có dấu hiệu trầm cảm, lo âu và căng thẳng lần lượt là 78,8%, 86,2% và 76,6%. Trong đó, các mức độ nặng và rất nặng chiếm tỷ lệ cao, đặc biệt ở nữ sinh. Giới tính có liên quan có ý nghĩa thống kê với cả ba vấn đề tâm lý (p < 0,05), trong khi khối lớp và nhóm trường học không có mối liên quan đáng kể. Kết luận: Tỷ lệ rối loạn tâm lý ở học sinh THPT tại Hà Nội ở mức cao, đặc biệt ở nhóm nữ. Cần có các chương trình can thiệp sớm phù hợp để hỗ trợ tâm lý tại các trường THPT nhằm nâng cao sức khỏe tinh thần cho học sinh.