CSDL Bài trích Báo - Tạp chí
chủ đề: Lao phổi
1 Giá trị của xét nghiệm Xpert MTB/RIF chẩn đoán lao phổi trong mẫu dịch rửa phế quản phế nang tại bệnh viện Đa khoa Đồng Nai / Đào Minh Ý // Y học thành phố Hồ Chí Minh (Điện tử) .- 2025 .- Số 3 .- Tr. 42-48 .- 610
Lao phổi vẫn là một vấn đề sức khỏe cộng đồng quan trọng, đặc biệt ở các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Các phương pháp chẩn đoán truyền thống, như soi kính hiển vi AFB, có độ nhạy thấp, đặc biệt khi tải lượng vi khuẩn trong mẫu BAL rất ít. Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm đánh giá giá trị chẩn đoán của xét nghiệm Xpert MTB/RIF trong việc phát hiện lao phổi ở 125 bệnh nhân nghi ngờ mắc bệnh tại bệnh viện Đa khoa Đồng Nai. Đối tương và phương pháp nghiên cứu: Đây là một nghiên cứu thử nghiệm chẩn đoán, được thực hiện trên 125 bệnh nhân nghi ngờ mắc lao phổi có chỉ định nội soi phế quản lấy mẫu dịch rửa phế quản phế nang (BAL) tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai từ tháng 4/2024 đến tháng 9/2024. Mẫu BAL được xét nghiệm bằng soi kính hiển vi AFB, Xpert MTB/RIF và nuôi cấy MGIT (tiêu chuẩn vàng). Giá trị chẩn đoán của Xpert MTB/RIF được đánh giá thông qua độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương tính (PPV) và giá trị tiên đoán âm tính (NPV), đồng thời so sánh với phương pháp soi kính hiển vi AFB.
2 Mô phỏng dược động học/dược lực học của pyrazinamid trên bệnh nhân lao phổi / Phan Tuấn Đức, Bùi Sơn Nhật, Lê Thị Luyến // Khoa học và công nghệ Việt Nam .- 2025 .- Số 2B .- Tr. 68 - 73 .- 610
Giới thiệu: Pyrazinamid (PZA) có vai trò lớn trong phác đồ chống lao, cần được tối ưu hóa cách sử dụng. Nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định khả năng đạt được các đích dược động học/dược lực học (PK/PD) của PZA trong điều trị lao phổi. Phương pháp: 516 mẫu máu của 129 bệnh nhân lao phổi không đa kháng thuốc được thu thập nhằm ghi nhận dữ liệu nồng độ - thời gian của PZA, từ đó xây dựng mô hình dược động học quần thể và mô phỏng Monte Carlo để xác định tỷ lệ đạt các đích PK/PD tại các chế độ liều dựa trên thể trọng và cân nặng trừ mỡ (FFM). Kết quả: Tỷ lệ đạt các đích PK/PD tăng dần khi tăng liều. Với MIC≥50 μg/ml, cần liều 40 mg/kg để trên 80% bệnh nhân đạt đích diện tích dưới đường cong/nồng độ ức chế tối thiểu (AUC/MIC); với liều 30 mg/kg hoặc 35 mg/kg, FFM >90% bệnh nhân đạt đích AUC0-24 và Cmax. Liều dựa trên FFM cho thấy hiệu quả tương tự so với các chế độ dựa trên thể trọng hiện nay. Kết luận: Các chế độ liều tính theo FFM cải thiện tỷ lệ các đích PK/PD của PZA.





