CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

chủ đề: Nền đất yếu

  • Duyệt theo:
1 Phương pháp lai MPA-CSM trong phân tích phi tuyến khung thép phẳng chịu địa chấn có xét tương tác giữa đất nền – kết cấu / Nguyễn Hồng Ân // .- 2025 .- Số 3 .- Tr. 212 - 222 .- 620

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích đề xuất và đánh giá sự chính xác của phương pháp lai MPA – CSM (Modal Pushover Analysis – Capacity Spectrum Method) trong việc dự báo phản ứng của hệ khung thép dưới tác động của động đất. Hệ khung thép được thực hiện với số tầng lần lượt là 3, 9, 18 tầng chịu tác động của hai bộ động đất xảy ra với tần suất là 2% và 10% trong 50 năm. Sự ảnh hưởng của tương tác đất nền – kết cấu cũng được xét đến trong nghiên cứu này. Các kết quả phân tích của phương pháp lai MPA – CSM đề xuất bao gồm chuyển vị mục tiêu, chuyển vị tầng, độ lệch tầng... được so sánh với kết quả từ phương pháp phân tích đẩy dần chuẩn SPA (Standard Pushover Analysis), phương pháp MPA (Modal Pushover Analysis), phương pháp MPA – CSM mode 1 (xét dạng dao động đầu) và nghiệm từ phương pháp phân tích phi tuyến theo miền thời gian NL – RHA (Nonlinear Response History Analysis). Quy trình tính toán của phương pháp lai MPA – CSM đề xuất đơn giản hơn so với phương pháp MPA và phương pháp NL – RHA, nên tiết kiệm được thời gian và chi phí tính toán.

2 Ảnh hưởng của từ biến và hệ số thấm trong xử lý nền đất yếu bằng bấc thấm kết hợp với gia tải trước và bơm hút chân không / Lê Trọng Nghĩa , Nguyễn Trung Kiên , Nguyễn Minh Trung // Vật liệu Xây dựng (Điện tử) .- 2025 .- Số 3 .- Tr. 11 - 16 .- 690

Việc dự báo chính xác độ lún cố kết sơ cấp và thứ cấp trong nền đất mềm bão hòa là yếu tố then chốt trong thiết kế xử lý nền đất yếu. Nghiên cứu này cho thấy kết quả mô phỏng phần tử hữu hạn (FEM) 2D và 3D cho phương pháp gia tải trước kết hợp hút chân không và bấc thấm (PVD) cùng với việc sử dụng hai mô hình đất Soft Soil (SS) và Soft Soil Creep (SSC). Kết quả cho thấy, việc sử dụng mô hình đất có xét đến từ biến cho độ lún bề mặt tương đồng với kết quả quan trắc thực tế, trong khi mô hình đất yếu bỏ qua lún thứ cấp do từ biến dẫn đến có sự sai lệch về kết quả đánh giá. Mô hình cũng góp phần khẳng định độ lún thứ cấp do từ biến ảnh hưởng nhiều đến kết quả bài tính xử lý nền. Sự so sánh giữa kết quả của mô hình 2D và 3D càng khẳng định tầm quan trọng của việc hiệu chỉnh hệ số thấm khi chuyển từ bài toán đối xứng trục sang bài toán phẳng để đảm bảo độ chính xác mô hình và hiệu quả kinh tế - kỹ thuật trong xử lý nền đất yếu bằng bấc thấm kết hợp với gia tải trước và bơm hút chân không.

3 Nghiên cứu ứng suất và dịch chuyển ngang do thi công cọc xi măng đất đến trụ cầu lân cận / Nguyễn Văn Hậu // Giao thông vận tải .- 2025 .- Số 2 .- Tr. 149 - 161 .- 624

Việc sử dụng cọc xi măng đất (Cement Deep Mixing - CDM) để gia cố nền đất yếu đang được áp dụng rộng rãi trong các công trình giao thông nhờ tính hiệu quả và an toàn. Nghiên cứu này đánh giá tác động của quá trình thi công CDM lên các công trình trụ cầu lân cận, một tình huống phổ biến trong các dự án đường vành đai. Thông qua phân tích dữ liệu thực tế về đất yếu tại thành phố Hồ Chí Minh, nghiên cứu chỉ ra rằng áp lực ngang và độ lún trong quá trình thi công CDM có thể vượt quá khả năng chịu tải của đất nền, gây dịch chuyển và xô lệch đất về phía các công trình lân cận. Kết quả cho thấy, mặc dù CDM ít ảnh hưởng sau khi xi măng cứng lại, quá trình thi công vẫn tiềm ẩn rủi ro. Để giảm thiểu tác động tiêu cực, nghiên cứu đề xuất duy trì khoảng cách an toàn tối thiểu 5m từ vị trí mũi khoan đến mép bệ cọc và thi công CDM trước khi thi công trụ cầu. Những phát hiện này cung cấp cơ sở khoa học cho thiết kế và thi công hiệu quả trên nền đất yếu, đồng thời mở ra hướng nghiên cứu mới về dịch chuyển ngang và xô lệch cọc trong điều kiện địa chất phức tạp

4 Phân tích số ứng xử của công trình đường trên nền đất yếu được xử lý bằng bấc thẩm kết hợp trụ xi măng đất / Nguyễn Bá Phú, Nguyễn Thị Phương Linh, Trần Việt Phương Đông, Nguyễn Thị Hải Yến // .- 2023 .- Số 61 - Tháng 01 .- Tr. 103-111 .- 624

Bài báo này trình bày một mô hình biến dạng phẳng sử dụng để mô phỏng số cho công trình đường trên nền đất yếu gia cố đồng thời bằng bấc thấm và trụ xi măng đất, trong đó hệ số thấm của đất nền và các thông số trụ xi măng đất (như độ cứng, bề rộng) được chuyển đổi từ trường hợp thực tế sang mô hình tương đương trong bài toán biến dạng phẳng. Các công thức chuyển đổi trong mô hình phẳng dựa vào các nghiên cứu trước đây đối với nền chỉ gia cố bấc thấm hoặc chỉ gia cố trụ xi măng đất. Tuy nhiên sự kết hợp này tạo ra một phương pháp mới để có thể sử dụng trong bài toán biến dạng phẳng để dự báo ứng xử của nền đường được gia cố bằng cách kết hợp bấc thấm và trụ xi măng đất. Vai trò của bấc thấm trong nền hỗn hợp cũng được khảo sát và phân tích qua ứng xử chuyển vị ngang của nền đất. Kết quả phân tích cho thấy độ lún thu được từ mô hình phẳng phù hợp với kết quả quan trắc hiện trường. Bấc thấm được sử dụng trong phương pháp kết hợp có thể làm giảm đáng kể chuyển vị ngang của nền đất yếu. Qua nghiên cứu này, tác giả kiến nghị sử dụng phương pháp xử lý nền đất yếu bằng phương pháp kết hợp trong điều kiện Việt Nam, đặc biệt những công trình đắp cao trên đất yếu có chiều dày lớn như đường dẫn đầu cầu.