CSDL Bài trích Báo - Tạp chí
chủ đề: Ý định mua sắm
1 Thái độ và sự sẵn sàng chi trả đối với sản phẩm tẩy rửa gia dụng hữu cơ / Trương Thị Thu Hường // .- 2024 .- Số 657 - Tháng 4 .- Tr. 104-106 .- 658
Thúc đẩy tiêu dùng xanh là xu hướng tích cực trong xã hội, trong kinh doanh. Nghiên cứu tìm hiểu mối liên hệ giữa thái độ và sự sẵn sàng chi trả của người tiêu dùng đối với sản phẩm tẩy rửa gia dụng hữu cơ. Kết quả phân tích mô hình nghiên cứu bằng PLS-SEM với dữ liệu sơ cấp của 251 đơn vị mẫu đưa ra khẳng định thái độ tích cực cũng thúc đẩy sự sẵn sàng chi trả; tiếp đó, hai yếu tố này đều tác động tích cực đến ý định mua của người tiêu dùng. Những kết quả đó là căn cứ đưa ra các hàm ý quản trị cho cho các nhà sản xuất và những người quan tâm đến tiêu dùng xanh nhằm thúc đẩy người tiêu dùng có thái độ tích cực, vượt qua những rào cản về sự chi trả để dẫn tới ý định mua
2 Ý định mua sắm xanh của người tiêu dùng Việt Nam: Vai trò của sự hoài nghi về quảng cáo xanh và sự quan tâm đối với phúc lợi động vật / Nguyễn Viết Bằng, Nguyễn Thị Lan Anh // .- 2023 .- Số 10 .- Tr. 91-107 .- 658
Nghiên cứu sử dụng phương pháp mô hình phương trình cấu trúc bình phương tối thiểu từng phần (PLS-SEM) và phần mềm Smart PLS phiên bản 3.0 để phân tích dữ liệu. Kết quả nghiên cứu đã làm sáng tỏ tác động của sự quan tâm đối với phúc lợi của động vật và sự hoài nghi đối với quảng cáo xanh đến ý định mua sắm xanh. Nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng cho việc phát triển chiến lược tiếp thị sáng tạo hướng đến khách hàng mục tiêu đặc biệt là đối với thị trường sản phẩm chăm sóc sắc đẹp xanh tại Việt Nam.
3 Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua hàng quốc tế trên các sàn thương mại điện tử của người tiêu dùng Việt Nam / Phan Thị Hiền Lương, Lê Hoàng Long // .- 2023 .- Số 1(536) .- Tr. 80-91 .- 381.142
Nghiên cứu này xác định các yếu tố tác động và mức độ ảnh hưởng của chúng đến ý định mua sắm hàng quốc tế trên các sàn thương mại điện tử của người tiêu dùng Việt Nam. Mô hình phương trình cấu trúc tuyến tính riêng phần cơ bản được xây dựng dựa trên lý thuyết nền là sử dụng và sự hài lòng lý thuyết hành vi hợp lý. Nghiên cứu khuyến nghị một số giải pháp nhằm phát triển thương mại điện tử xuyên biên giới tại Việt Nam.
4 Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định mua căn hộ chung cư của người tiêu dùng tại thành phố Hồ Chí Minh : vai trò trung gian của thái độ đối với hành vi / Phạm Đình Hân, Võ Thanh Hải // .- 2022 .- Số 300 .- Tr. 85-95 .- 658
Nghiên cứu này điều tra ý định mua căn hộ chung cư của người tiêu dùng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở mở rộng lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB), năm cấu trúc được xác định và sáu giả thuyết được đề xuất. Mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) đã được sử dụng để phân tích 316 bảng trả lời được thu thập từ việc khảo sát bảng câu hỏi cấu trúc nhằm kiểm tra các giả thuyết được đề xuất. Kết quả nghiên cứu cho thấy thái đội đối với hành vi được khẳng định là yếu tố ảnh hưởng quan trọng nhất đến ý định mua căn hộ chung cư của người tiêu dùng, tiếp theo là nhận thức kiểm soát hành vi, chuẩn chủ quan và nhận thức rủi ro. Ngoài ra, nhận thức rủi ro, chuẩn chủ quan có ảnh hưởng gián tiếp đến ý định mua căn hộ chung cư thông qua thái độ đối với hành vi. Do đó, thái độ đối với hành vi đóng một vai trò quan trọng trong việc tăng cường ý định mua căn hộ chung cư của người tiêu dùng ở giai đoạn này.
5 Mối quan hệ giữa truyền miệng điện tử, hình ảnh thương hiệu và ý định mua trực tuyến của người tiêu dùng tại các siêu thị ở Hà Nội / Nguyễn Thị Liên Hương, Lê Huyền Trang // Nghiên cứu kinh tế .- 2022 .- Số 527 .- Tr. 96-108 .- 658
Bài viết nghiên cứu mối quan hệ giữa truyền miệng điện tử, hình ảnh thương hiệu và ý định mua hàng trực tuyến. Nghiên cứu cung cấp thông tin chi tiết chính cho những người bán hàng trực tuyến tập trung vào thị trường Hà Nội bằng cách xây dựng lòng tin, hình ảnh thương hiệu và truyền miệng điện tử để tăng ý định mua sản phẩm của khách hàng.
6 Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định mua sản phẩm du lịch qua website đại lý du lịch trực tuyến (OTA) tại Việt Nam / Phùng Thị Hằng, Mai Thị Kim Ngân, Bùi Thị Xuân Hạnh, Trần Quốc Huy, Lê Thị Hạnh Quỳnh // Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương .- 2022 .- Số 609 .- Tr. 139-141 .- 910
Nghiên cứu xem xét mối quan hệ tác động giữa các nhân tố ảnh hưởng đến ý định mua sản phẩm du lịch qua website của các đại lý du lịch trực tuyến (OTA) tại Việt Nam. Từ đó, nhóm nghiên cứu đề xuất giải pháp và chính sách khuyến nghị nhằm ưu việt hóa các website OTA của doanh nghiệp Việt Nam.
7 Mối quan hệ giữa tính khả dụng của trang web với thái độ và ý định mua của người tiêu dùng: Vai trò trung gian của sự hài lòng / Nguyễn Đình Toàn // Kinh tế & phát triển .- 2022 .- Số 299 .- Tr. 73-82 .- 658
Nghiên cứu này được thực hiện để điều tra ảnh hưởng của tính khả dụng đến thái độ và ý định mua và xem xét vai trò trung gian của sự hài lòng của khách hàng. Trên cơ sở dữ liệu khảo sát 509 khách hàng đã từng mua và trải nghiệm trên trang Shopee tại Việt Nam, mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) đã được sử dụng để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, tính dễ sử dụng, dễ hiểu, dễ mua và dễ đặt hàng có ảnh hưởng tích cực đến sự hài lòng của khách hàng. Tính dễ sử dụng, dễ hiểu và dễ đặt hàng có ảnh hưởng tích cực đến thái độ đối với mua. Trong khi đó, chỉ có tính dễ sử dụng có ảnh hưởng tích cực đến ý định mua. Nghiên cứu cho thấy tính dễ sử dụng, dễ hiểu, dễ mua và dễ đặt hàng đều có ảnh hưởng đến thái độ và ý định mua một cách gián tiếp thông qua sự hài lòng của người tiêu dùng.
8 Ý định mua và sẵn sàng trả giá cao của người tiêu dùng đối với thực phẩm hữu cơ: ứng dụng mô hình hồi quy Logistics / Nguyễn Ngọc Hiền // .- 2022 .- Số 51 .- Tr. 3-13 .- 658.812
Nghiên cứu nhằm mục đích điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua và sẵn sàng trả giá cao của người tiêu dùng đối với thực phẩm hữu cơ. Kết quả nghiên cứu xác nhận, đặc điểm gia đình, thái độ, nhận thức an toàn và rào cản rủi ro những yếu tố chính ảnh hưởng đáng kể đến ý định mua và sẵn sàng trả giá cao của người tiêu dùng đối với thực phẩm hữu cơ.
9 Nghiên cứu đề xuất phương án thúc đẩy ý định mua sắm sản phẩm thời trang nội địa Việt Nam trên nền tảng thương mại xã hội trên địa bàn Hà Nội / // Kinh tế & phát triển .- 2022 .- Số 297 .- Tr. 93-104 .- 658
Thương mại xã hội là một mô hình kinh doanh mới tạo nên bước phát triển đột phá trong lĩnh vực mua sắm trực tuyến. Trong bối cảnh ngành công nghiệp thời trang Việt Nam ngày càng khởi sắc, nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định những yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua sắm sản phẩm thời trang nội địa trên nền tảng thương mại xã hội. Nghiên cứu sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi và thu thập câu trả lời trực tuyến qua mạng Internet. Sau khi phân tích dữ liệu thu được từ 555 người tiêu dùng bằng phương pháp hồi quy bội, kết quả cho thấy các nhân tố bao gồm sự thích thú, nhận thức tính dễ sử dụng, đánh giá trực tuyến, hình ảnh thương hiệu, quảng cáo đều ảnh hưởng tích cực tới ý định mua sắm trên nền tảng thương mại xã hội; đặc biệt hình ảnh thương hiệu có tác động mạnh nhất. Bên cạnh đó, nhận thức về rủi ro lại có tác động tiêu cực đến ý định mua sắm sản phẩm thời trang nội địa của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đóng góp cả về mặt lý thuyết và thực tiễn, giúp các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực thời trang nội địa đưa ra những chiến lược kinh doanh phù hợp nhằm thúc đẩy ý định mua hàng của người tiêu dùng.
10 Ý định mua thực phẩm trực tuyến sau giai đoạn giãn cách xã hội do Covid - Nghiên cứu tại Thành phố Đà Nẵng / Lê Thị Minh Hằng, Lê Việt Tuấn // Khoa học Thương mại .- 2021 .- Số 158 .- Tr. 42-50 .- 658
Nghiên cứu này đã được thực hiện ngay trong giãn cách xã hội tại Đà Nẵng, từ 20/08 đến 15/09 năm 2020. Bằng việc sử dụng các mô hình nghiên cứu hành vi dự định TAM, TRA, TPB kết hợp với mô hình VAB (Homer & Kahle, 1988) và nhân tố Nhận thức rủi ro, chúng tôi đã nhận thấy xu hướng phát triển trong mua sắm thực phẩm trực tuyến (MSTT) của người tiêu dùng Việt Nam trong và sau đại dịch Covid19. Hành vi mua thực phẩm trực tuyến tăng mạnh trong giai đoạn giãn cách và họ có ý định mua cao sau giãn cách. Ý định này ngoài việc bị tác động bởi các biến trong 3 mô hình truyền thống là TAM, TRA, TPB thì còn bị tác động bởi Giá trị cá nhân và Nhận thức rủi ro.