CSDL Bài trích Báo - Tạp chí

chủ đề: Sức khỏe sinh sản

  • Duyệt theo:
1 Nhu cầu giáo dục sức khỏe sinh sản chưa được đáp ứng của vị thành niên từ thực tiễn một xã nông thôn hiện nay / Nguyễn Quang Tuấn // .- 2023 .- Số 647 - Tháng 11 .- Tr. 58-60 .- 658

Dựa vào dữ liệu phỏng vấn sâu, bài viết tìm hiểu thực trạng nhu cầu giáo dục sức khỏe sinh sản (GDSKSS) chưa được đáp ứng và những rào cản trong việc đáp ứng nhu cầu GDSKSS của vị thành niên (VTN) từ thực tiễn một xã nông thôn hiện nay. Kết quả nghiên cứu cho thấy, VTN nông thôn tiếp cận chưa đầy đủ thông tin về các vấn đề liên quan đến SKSS, CSSKSS, đặc biệt là VTN còn chưa biết đến các dịch vụ tư vấn, tham vấn và CSSKSS. VTN nông thôn có nhu cầu được gia đình, nhà trường và không gian mạng cung cấp thông tin cụ thể với những hình thức và cách thức cung cấp thông tin gắn với thực tiễn vấn đề VTN gặp phải hơn là cách giáo dục mang nặng tính hình thức.

2 Các yếu tố kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến việc chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên : nghiên cứu ở trường PTTH Chi Lăng, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn / Hồ Thị Hòa, Nguyễn Đức Hoàn // .- 2023 .- Số 643 - Tháng 9 .- Tr. 31 - 33 .- 330

Trong bài viết này, tác giả tìm hiểu và phân tích một số yếu tố kinh tế-xã hội ảnh hưởng việc chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên khu vực miền núi và dân tộc thiểu số. Nội dung chăm sóc sức khỏe sinh sản được tìm hiểu là thực trạng kiến thức và quan điểm về việc tránh thai và phá thai an toàn, kiến thức và quan điểm về bệnh nhiễm khuẩn qua đường sinh sản, bệnh lây truyền qua đường tình dục.

3 Tình trạng lo âu và một số yếu tố liên quan ở người bệnh khám nam học tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội / Bùi Đình Oanh, Nguyễn Hoài Bắc, Chu Thị Chi // Nghiên cứu Y học - Trường ĐH Y Hà Nội .- 2021 .- Số 11(Tập 147) .- Tr. 116-122 .- 610

Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu mô tả tình trạng lo âu và một số yếu tố liên quan ở người bệnh khám nam học tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Hiện nay, tỷ lệ nam giới mắc các bệnh lý về nam khoa ngày càng phổ biến. Khác với nữ giới, nam giới thường hay trì hoãn việc đi khám do tâm lý xấu hổ, ngại ngùng làm các triệu chứng của bệnh nặng thêm. Có rất nhiều nghiên cứu về lo âu với các bệnh lý khác nhau, nhưng chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu về lo âu ở bệnh nhân nam khoa. Việc xác định tỷ lệ lo âu của bệnh nhân khám giúp bác sĩ có thể lựa chọn cách thức giao tiếp phù hợp khi thăm khám, chú trọng đến yếu tố tâm lý để kịp thời phát hiện và điều trị những rối loạn tâm lý kèm theo bên cạnh việc điều trị chính.

4 Kiến thức, thái độ và hành vi về sức khỏe sinh sản của sinh viên nữ khối Khoa học sức khỏe, Trường Đại học Duy Tân / // Khoa học & Công nghệ Đại học Duy Tân .- 2020 .- Số 3(40) .- Tr. 121-136 .- 610

Ngày nay, tình trạng quan hệ tình dục không an toàn ở sinh viên Việt Nam rất phổ biến, do đó việc tuyên truyền các biện pháp tránh thai phù hợp cho lứa tuổi này là hết sức quan trọng, để làm giảm tình trạng có thai ngoài ý muốn, nạo phá thai ở lứa tuổi thanh thiếu niên, các bệnh lây truyền đường tình dục. Bài báo nghiên cứu thực trạng về sức khỏe sinh sản ở sinh viên với mục tiêu khảo sát kiến thức, thái độ và hành vi về sức khỏe sinh sản của sinh viên và các yếu tố liên quan. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 530 đối tượng là sinh viên nữ từ năm 1 đến năm 4 thuộc khối ngành Khoa học sức khỏe Trường Đại học Duy Tân, sử dụng phương pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn và thu thập số liệu bằng bộ câu hỏi soạn sẵn với hình thức tự điền giấu tên. Kết quả: tỷ lệ sinh viên có kiến thức, thái độ và hành vi tốt về sức khỏe sinh sản lần lượt là 37,9%, 23,4% và 82,6%. Kết luận: Thực trạng kiến thức, thái độ và hành vi về sức khỏe sinh sản của sinh viên nữ thuộc khối Khoa học sức khỏe Trường Đại học Duy Tân còn hạn chế trong khi nhu cầu tìm hiểu về vấn đề sức khỏe sinh sản khá cao. Do vậy, cần tăng cường giáo dục về sức khỏe sinh sản để sinh viên nâng cao hiểu biết cũng như chủ động bảo vệ sức khỏe cho bản thân và cộng đồng.