CSDL Bài trích Báo - Tạp chí
chủ đề: Bê tông
1 Mô hình dự đoán đường tải trọng-chuyển vị cho dầm ngắn bê tông geopolymer cốt thép / Nguyễn Thiện Thành, Lê Anh Tuấn, Trần Cao Thanh Ngọc // .- 2022 .- Số 6 .- Tr. 23 - 29 .- 624
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm giới thiệu mô hình nhằm dự đoán đường tải trọng chuyển vị của dầm ngắn GC cốt thép. Một số nghiên cứu đã được thực hiện đối với xi măng hoạt tính kiềm hoặc bê tông geopolymer (GC) ở cấp độ vật liệu. Tuy nhiên, chưa có nhiều kết quả nghiên cứu về ứng xử của cấu kiện bê tông geopolymer cốt thép. Trong các quy chuẩn thiết kế, sự đóng góp của lực cắt đối với chuyển vị võng bị bỏ qua, điều này đánh giá thấp đáng kể đến chuyển vị tổng. Mặt khác, giá trị mô đun đàn hồi thấp hơn của bê tông geopolymer ảnh hưởng đáng kể đến khả năng chịu cắt của cấu kiện dầm.
2 Cải thiện chất lượng bề mặt bê tông khi sử dụng ván khuôn có lớp lót kiểm soát thấm / Chu Bảo Ngọc // Vật liệu Xây dựng (Điện tử) .- 2024 .- Số 6 .- Tr. 17-21 .- 620
Chất lượng bề mặt của bê tông rất quan trọng đối với độ bền của kết cấu bê tông cốt thép, bởi vì lớp phủ đứng đầu trong việc bảo vệ cả những hư hỏng cơ học và hư hỏng hóa học. Lớp lót ván khuôn thấm có kiểm soát (CPF) là vật liệu cải tiến được sử dụng để cải thiện chất lượng bê tông ở vùng phủ, bằng cách cho phép bọt khí và nước hỗn hợp thoát ra khỏi bề mặt bê tông trong khi vẫn giữ lại xi măng và các hạt mịn khác. Trong suốt quá trình đổ bê tông và do áp lực của bê tông, không khí bị mắc kẹt và lượng nước trộn dư thừa có thể bị giữ lại trên bề mặt gây ra các vết bẩn, thay vào đó có thể đi qua lớp lót. Một phần nước hỗn hợp này được giữ trong lớp lót và dưới tác động mao dẫn, thấm trở lại vào bê tông để hỗ trợ quá trình đóng rắn.
3 Nghiên cứu nâng cao độ bền sốc nhiệt của bê tông chịu lửa sử dụng cốt liệu bô xít thiêu kết / Trương Đức Tiệp, Nguyễn Thị Kim, Phạm Hoàng Anh // .- 2024 .- Số 5 .- Tr. 20-29 .- 620
Bài báo này nghiên cứu việc nâng cao độ bền sốc nhiệt của bê tông chịu lửa bằng cách thay thế một phần cốt liệu bô xít thiêu kết bằng cacbua silic (SiC). Kết quả cho thấy khi thay thế bô xít bằng SiC, bê tông chịu lửa có hệ số giãn nở nhiệt thấp hơn, độ bền sốc nhiệt tăng lên đáng kể. Tuy nhiên hàm lượng SiC thêm vào ảnh hưởng đến mật độ khối và tính chất cơ lý của sản phẩm. Trong điều kiện thử nghiệm, chỉ nên sử dụng tối đa hàm lượng SiC 15% để đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của sản phẩm.
4 Chế độ nhiệt trong bê tông khối lớn ở giai đoạn hạ nhiệt / Lưu Văn Thực, Lê Quang Trung, Phan Xuân Thục // Vật liệu Xây dựng (Điện tử) .- 2024 .- Số 5 .- Tr. 47-57 .- 620
Một nghiên cứu mô phỏng số đã được thực hiện để điều tra chế độ nhiệt trong bê tông khối lớn ở giai đoạn hạ nhiệt. Phân tích trường ứng suất nhiệt độ trong khối bê tông sẽ được thực hiện bằng cách sử dụng công cụ phân tích nhiệt dạng dòng của phần mềm Midas/Civil. Độ tin cậy và tính chính xác của phương pháp số được đề xuất sẽ được chứng minh thông qua việc so sánh kết quả phân tích số với kết quả thu được từ thí nghiệm. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc kiểm soát nứt do nhiệt trong bê tông khối lớn ở giai đoạn hạ nhiệt là rất cần thiết.
5 Dự đoán khả năng chịu nén đúng tâm của cột ngắn ống thép nhồi bê tông mặt cắt hình vuông có khuyết tật khoảng hở hình tam giác ở góc cột / Nguyễn Quang Sĩ, Trần Xuân Ba, Hà Văn Anh Khoa // Vật liệu Xây dựng (Điện tử) .- 2024 .- Số 5 .- Tr. 71 - 78 .- 620
Bài báo trình bày nghiên cứu về xây dựng công thức xác định khả năng chịu nén đúng tâm của cột ngắn ống thép nhồi bê tông (CFST) có mặt cắt ngang hình vuông có khuyết tật là khoảng hở hình tam giác trong lõi bê tông ở góc cột bằng mô hình trí tuệ nhân tạo. 120 mẫu thí nghiệm thu thập từ các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới được làm cơ sở dữ liệu của nghiên cứu này. Để đánh giá ảnh hưởng khả năng chịu nén của loại cột này, các tham số được phân tích dựa trên phương pháp hồi quy kí tự QLatice. So sánh với dữ liệu từ kết quả thực nghiệm cho thấy, mô hình trí tuệ nhân tạo đưa ra dự báo tin cậy khi so sánh với kết quả từ thực nghiệm.
6 Sử dụng mô hình hồi quy phi tuyến bậc hai để tối ưu hoá các yếu tố ảnh hưởng đến cường độ và độ chảy xòe của bê tông tính năng cao / Vũ Chí Công, Lê Văn Minh // .- 2023 .- Số 5 .- Tr. 30 - 36 .- 620
Đối với bê tông thường (CVC), quy trình thiết kế cấp phối bê tông tương đối đơn giản, thông thuờng chỉ cần thử nghiệm một số cấp phối với tỷ lệ xi măng khác nhau, chi phí một đợt thí nghiệm là không đáng kể. Trong khi đó để thiết kế cấp phối bê tông tính năng cao (HPC), do phải xác định cấp phối sao cho thỏa mãn yêu cầu kỹ thuật, trong đó quan trọng nhất với HPC là yêu cầu về cường độ chịu nén và độ chảy xòe. Hiện nay các cơ quan, doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu thường phải tốn rất nhiều công sức, kinh phí để làm thí nghiệm và thử nghiệm hiện trường. Bài viết này, tác giả đã sử dụng phương pháp quy hoạch thực nghiệm để tìm ra cấp phối tối ưu cho bê tông tính năng cao với mác bê tông thiết kế đã cho ban đầu, thỏa mãn yêu cầu về cường độ và độ chảy xòe mà số thí nghiệm phải làm là ít nhất. Kết quả này có thể dung để tham khảo trong quy trình thiết kế cấp phối HPC nhằm giảm kinh phí làm thí nghiệm.
7 Nghiên cứu thực nghiệm đánh giá khả năng nứt ở độ tuổi ban đầu của bê tông thường và bê tông cường độ cao bằng phương pháp vòng kiềm chế / Nguyễn Ngọc Thành // Vật liệu Xây dựng (Điện tử) .- 2023 .- Số 5 .- Tr. 37 - 42 .- 620
Nghiên cứu này tập trung vào việc đánh giá khả năng nứt ở độ tuổi ban đầu của bê tông thường (NC) và bê tông cường độ cao (HC) bằng phương pháp vòng kiềm chế, nhằm cung cấp cho việc dự đoán khả năng ứng xử của từng loại bê tông để từ đó đưa ra những biện pháp thi công phù hợp cho công trình xây dựng. Hai loại bê tông được khảo sát bao gồm NC với mác thiết kế M350 và HC với mác thiết kế M600. Kết quả thực nghiệm đã chỉ ra rằng khi so với NC, HC có tốc độ co ngót nhanh hơn trong 24 giờ đầu, và tăng rất chậm trong những ngày sau đó. Vết nứt xuất hiện trong HC thường xảy ra rất sớm khi so sánh với NC. Khả năng nứt của bê tông có thể được đánh giá dựa trên thời điểm nứt hoặc tốc độ phát triển ứng suất kéo theo thời gian của bê tông, không phụ thuộc vào loại bê tông. Kết luận rằng, việc dự đoán khả năng nứt trong mỗi loại bê tông thông qua thí nghiệm vòng kiềm chế mang tính khả thi để từ đó có thể đưa ra nhiều biện pháp thi công phù hợp khi áp dụng từng loại bê tông trong xây dựng.
8 Giảm thiểu phát thải và chỉ số tiêu thụ năng lượng của bê tông nhiều tro bay ở Việt Nam / Nguyễn Thanh Sang, Nguyễn Tuấn Anh, Nguyễn Thanh Vũ // Xây dựng .- 2025 .- Số 7 .- .- 624
Bài báo trình bày nghiên cứu sử dụng tro bay (FA) với hàm lượng cao (25 - 50%) để thay thế chất kết dính (CKD) trong bê tông xi măng dùng cho các khối bê tông kết cấu tại Việt Nam. Các thí nghiệm được thực hiện để lựa chọn xi măng, cốt liệu, phụ gia siêu dẻo và tro bay để chế tạo bê tông có độ sụt 10 - 12 cm và cường độ chịu nén từ 30 - 40 MPa. Kết quả cho thấy bê tông nhiều tro bay (HVFA) không chỉ đáp ứng yêu cầu kỹ thuật mà còn giảm đáng kể phát thải khí nhà kính lên đến 31% và chỉ số tiêu thụ năng lượng giảm đến 38%. Đặc biệt, tiềm năng kết hợp FA với các CKD phụ thêm khác như xỉ lò cao nghiền mịn (GGBS) hoặc silica fume (SF) để cải thiện tính chất cơ học và độ bền. Nghiên cứu cũng phân tích các yếu tố ảnh hưởng như vận chuyển FA và đề xuất giải pháp tối ưu hóa ứng dụng HVFA tại Việt Nam, hứa hẹn thúc đẩy phát triển bền vững trong ngành Xây dựng.
9 Khả năng sử dụng bùn thải và đá thải trong khai thác khoáng sản quặng đồng Sin Quyền kết hợp tro bay nhiệt điện để chế tạo bê tông đầm lăn làm móng đường giao thông / Hồ Anh Cương, Nguyễn Trọng Dũng // Xây dựng .- 2025 .- Số 5 .- Tr. 74 - 77 .- 624
Hiện nay, Việt Nam hiện không đủ nguồn cung cát tự nhiên phục vụ nhu cầu xây dựng ở một số địa phương. Do đó, việc nghiên cứu sử dụng cát nhân tạo để thay thế cát tự nhiên là một trong những giải pháp hiệu quả không những về kinh tế, kỹ thuật mà còn cả về môi trường sinh thái. Trong nghiên cứu này đã sử dụng bùn thải, cát nhân tạo và đá dăm được gia công từ đá thải trong quá trình khai thác quặng đồng Sin Quyền (Lào Cai) kết hợp với tro bay nhiệt điện Sơn Động (Bắc Giang) để chế tạo bê tông đầm lăn (BTĐL) (RCC) trong phòng thí nghiệm. Kết quả nghiên cứu cho thấy, với tỷ lệ sử dụng tro bay nhiệt điện và bùn thải khai thác quặng đồng dao động từ 10% đến 30% theo thể tích của xi măng có thể chế tạo được BTĐL với độ cứng 20 - 40 giây, các giá trị trung bình ở tuổi 28 ngày như: Cường độ chịu kéo uốn từ 3,08 - 3,58 MPa, cường độ nén 24,5 - 28,5 MPa, độ mài mòn đạt 0,300 - 0,334 g/cm2, mô-đun đàn hồi khi nén tĩnh từ 38,5 - 41,5 GPa. Từ đó, bài báo đánh giá rằng BTĐL trong nghiên cứu có thể sử dụng được cho tầng móng của mặt đường giao thông cấp cao.
10 Đánh giá sử dụng bê tông bọt làm vật liệu san lấp hố móng công trình nhà ở dân dụng / Nguyễn Đăng Hanh // .- 2025 .- Số 5 .- Tr. 88 - 91 .- 624
Bài báo đánh giá ứng dụng bê tông bọt trong công tác san lấp hố móng công trình xây dựng dân dụng, giải quyết vấn nạn thiếu hụt của các nguồn vật liệu tự nhiên (cát, đất). Bài báo đã phân tích các yếu tố kỹ thuật, môi trường, tính khả thi kỹ thuật của giải pháp. Một số thí nghiệm đã được thực hiện nhằm đánh giá thực tiễn, trong đó có cường độ cơ học, khối lượng riêng thể tích khô. Kết quả thực nghiệm cho thấy bê tông bọt thi công trên công trình thực tế sẽ có giảm sút về cường độ cơ học nhưng vẫn đảm bảo được mức cường độ cơ học tối thiểu của vật liệu san lấp. Kết quả thực nghiệm cho thấy tính khả thi và giá trị thực tiễn của nghiên cứu.