CSDL Bài trích Báo - Tạp chí
chủ đề: Hóa trị liệu
1 Một số biến chứng trong hóa – xạ trị điều biến liều bệnh ung thư vòm mũi họng giai đoạn IIB-III / Phạm Lâm Sơn, Vũ Hồng Thăng, Vùi Vinh Quang // Nghiên cứu Y học - Trường ĐH Y Hà Nội .- 2022 .- Số 2(Tập 150) .- Tr. 166-173 .- 610
Trình bày một số biến chứng trong hóa – xạ trị điều biến liều bệnh ung thư vòm mũi họng giai đoạn IIB-III. Điều trị ung thư vòm họng giai đoạn IIB-III bằng cisplatin hàng tuần đồng thời với xạ trị kỹ thuật điều biến liều có tỷ lệ chấp thuận phác đồ điều trị khá cao. Đáp ứng hoàn toàn tại u là 95,6%, tại hạch là 92,5%. Bệnh nhân xạ trị đủ 70 Gy, tỷ lệ hóa trị 5-6 chu kỳ trong giai đoạn xạ trị lên đến 77,8%. Biến chứng cấp trên lâm sàng chủ yếu gặp ở độ 1-2, viêm niêm mạc miệng cấp độ 3 chiếm 60%. Biến chứng mạn tính chủ yếu độ 1-2, ít ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh.
2 Đánh giá tác dụng điều trị hỗ trợ của bài thuốc thập toàn đại bổ trên bệnh nhân ung thư vú đang hóa trị theo phác đồ AC / Nguyễn Thị Bích Thảo // .- 2020 .- Số 66(Số đặc biệt) .- Tr.26-35 .- 610
Nghiên cứu cho thấy bài thuốc Thập toàn đại bổ có tác dụng điều trị hỗ trợ bệnh nhân ung thư vú đang hóa trị theo phác đồ AC. Điều trị hóa chất cho bệnh nhân ung thư vú, bên cạnh lợi ích điều trị bệnh ung thư thường gặp các triệu chứng không mong muốn trên hệ tiêu hóa (buồn nôn, nôn, chán ăn, rối loạn tiêu hóa) và hệ tạo huyết (giảm bạch cầu, giảm hồng cầu) hoặc tăng men gan, rụng tóc làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Thập toàn đại bổ là một bào thuốc được Y học cổ truyền thừa kế và phát huy một cách sáng tạo để điều trị chứng khí huyết lưỡng hư mang lại kết quả tốt.
3 Kết quả điều trị bệnh nhân u nguyên bào nuôi nguy cơ thấp tại Bệnh viện Phụ Sản Trung Ương / Nguyễn Thái Giang // .- 2019 .- Số 121(5) .- Tr. 23-30 .- 610
U nguyên bào nuôi nguy cơ thấp (UNBN-NCT) được điều trị bằng đơn hóa trị liệu Methotrexate theo khuyến cáo của FIGO. Nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định tỷ lệ bệnh nhân đáp ứng và kháng với đơn hóa trị liệu cũng như kết quả điều trị của bệnh nhân UNBN-NCT. Nghiên cứu quan sát tiến cứu trên 204 bệnh nhân UNBN - NCT (điểm FIGO 0 - 6) điều trị bằng MTX từ 1/2015 đến 9/2017 tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Kết quả cho thấy tỷ lệ khỏi với phác đồ đơn hóa trị liệu MTX là 72,55 %. Tỷ lệ kháng đơn hóa trị liệu MTX là 27,45 %. Điều trị sau kháng MTX bằng phẫu thuật và hóa chất chiếm 58,93 %, còn 41,07% điều trị bằng đa hóa chất. Bệnh nhân kháng với MTX có nồng độ βhCG trung bình trước điều trị cao hơn (19532.99 ± 37887.9 IU/l vs. 8690.96 ± 18648.1 IU/l) và cần thời gian điều trị khỏi bệnh dài hơn (201,5 ngày so với 58,9 ngày) so với bệnh nhân không kháng MTX. Tỷ lệ điều trị khỏi của bệnh nhân UNBN-NCT trong quần thể mẫu là 99,5%.