CSDL Bài trích Báo - Tạp chí
chủ đề: Xét nghiệm
1 Ảnh hưởng của điều trị heparin đến xét nghiệm định lượng albumin huyết tương bằng phương pháp Bromocresol Green / Nguyễn Thị Thanh Hải, Nguyễn Hoàng Phương // .- 2024 .- Tập 182 - Số 09 .- Tr. 1-8 .- 610
Nghiên cứu mô tả đánh giá độ chênh lệch của hai phương pháp xét nghiệm albumin BCG (Bromocresol Green) và BCP (Bromocresol Purple) trên mẫu huyết tương của bệnh nhân có hoặc không điều trị heparin. Nghiên cứu thực hiện so sánh kết quả định lượng albumin trên 272 mẫu bệnh nhân có hoặc không điều trị heparin bằng cả 2 phương pháp BCG và phương pháp tham chiếu BCP là phương pháp không bị nhiễu bởi heparin.
2 Ảnh hưởng của vận chuyển khí nén tới chỉ số huyết tán của bệnh phẩm máu tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội / Nguyễn Thị Ngọc Lan, Hà Thị Phương Dung, Nguyễn Đức Tuấn // .- 2024 .- Tập 176 - Số 03 - Tháng 5 .- Tr. 24-30 .- 610
Nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát ảnh hưởng của vận chuyển khí nén tới chỉ số huyết tán của bệnh phẩm máu tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Nghiên cứu là nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 1663 mẫu bệnh phẩm máu được chống đông bằng Heparin.
3 So sánh kết quả xét nghiệm điện giải đồ trên hệ thống máy phân tích khí máu và hóa sinh tự động / Nguyễn Thị Ngọc Lan, Vũ Văn Qúy, Lê Hữu Lộc // Khoa học Công nghệ Việt Nam - B .- 2022 .- Số 5(Tập 64) .- Tr. 1-5 .- 610
Phân tích so sánh kết quả xét nghiệm điện giải đồ trên hệ thống máy phân tích khí máu và hóa sinh tự động. Điện giải là những khoáng chất mang điện tích cần thiết cho hoạt động của tế bào cơ thể. Xét nghiệm điện giải đồ thường được chỉ định trên lâm sàng, kết quả của xét nghiệm này đặc biệt quan trọng ở những bệnh nhân tại các đơn vị điều trị tích cực (ICU). Bên cạnh yêu cầu về tính chính xác của kết quả xét nghiệm, thời gian trả kết quả xét nghiệm cũng cần rút ngắn nhất để đảm bảo công tác chắc sóc và điều trị. Các mẫu bệnh phẩm khí máu được thực hiện phân tích thêm các chỉ số điện giải đồ trên hệ thống ABG. Kết quả điện giải đồ trên ABG và hóa sinh tự động có mối tương quan chặt chẽ, tuy nhiên sự khác biệt vượt quá mức cho phép và phụ thuộc vào nồng độ của các chất điện giải trong máu. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê và dẫn tới khác biệt trong chẩn đoán lâm sàng, chính vì vậy, các bác sĩ lâm sàng cần cân nhắc khi sử dụng các kết quả xét nghiệm này.
4 Kỷ nguyên mới của xét nghiệm di truyền / Lương Thị Lan Anh // Nghiên cứu Y học - Trường ĐH Y Hà Nội .- 2021 .- Số 11(Tập 147) .- Tr. 38-46 .- 610
Mô tả sự phát triển của lĩnh vực xét nghiệm di truyền, chi phí giải trình tự DNA đã giảm nhanh chóng, di truyền người cũng như tác động của di truyền đối với bệnh tật với tốc độ ngày càng nhanh. Xét nghiệm di truyền là một loại xét nghiệm trong y học để xác định những biến đổi di truyền ở mức độ di truyền tế bào (nhiễm sắc thể) và di truyền phân tử (gen, protein). Một số khám phá gây bất ngờ lớn trong thập kỷ vừa qua là sự biến đổi gen của con người lớn hơn nhiều so với dự kiến và các rối loạn di truyền đều phổ biến và phức tạp hơn trong dân số loài người so với trước đây. Xét nghiệm di truyền đang góp một vai trò quan trọng trong chẩn đoán và điều trị bệnh trên hầu hết các lĩnh vực y học như: sản phụ khoa, nhi khoa, nam khoa, ung thư, tim mạch, thần kinh, nối tiết, chuyển hóa,…
5 Xây dựng thang chuẩn DNA để xác định các băng DNA kích thước nhỏ / Võ Thị Thương Lan, Lê Thị Thanh // Công nghệ Sinh học .- 2021 .- Số 3(Tập 19) .- Tr. 539-545 .- 572
Phân tích thang chuẩn DNA để xác định các băng DNA kích thước nhỏ. Thang chuẩn DNA được sử dụng thường quy trong các phòng thí nghiệm, xét nghiệm về sinh học phân tử. Thang chuẩn DNA là hỗn hợp các phân tử DNA có kích thước khác nhau, được sử dụng trong điện di nhằm đánh giá kích thước và nồng độ đoạn DNA chưa biết. Thang chuẩn DNA thường được phân làm hai loại dựa vào nguyên liệu sử dụng để xây dựng thang chuẩn và tính chất của các băng tạo thành. Toàn bộ quy trình thiết kế dùng kỹ thuật cơ bản như PCR, nối, tách dòng và cắt với enzym giới hạn. Do đó, bất cứ phòng thí nghiệm nào đều có thể áp dụng và thay đổi quy trình để tạo nên thang chuẩn có số lượng băng và kích thước mỗi băng theo mong muốn.
6 Một đánh giá về khả năng tương đồng kết quả xét nghiệm công thức máu / Lê Thị Kim Chung, Bùi Thị Minh Hạnh, Đào Xuân Đạt, Tạ Thị Linh, Nguyễn Đăng Vững // Nghiên cứu Y học - Trường ĐH Y Hà Nội .- 2021 .- Số 8(Tập 144) .- Tr. 155-165 .- 610
Đánh giá tương đồng thiết bị thông qua xác nhận tương đồng kết quả phân tích là một biện pháp được sử dụng trong đảm bảo chất lượng kết quả thử nghiệm dựa vào đó đưa ra quyết định về khả năng sử dụng thiết bị trong nghiên cứu và các hoạt động xét nghiệm khác. Công tác đảm bảo chất lượng kết quả xét nghiệm nói chung và so sánh tương đồng kết quả xét nghiệm thông qua đánh giá tương đồng thiết bị đang và sẽ càng được phát huy vai trò trong công tác quản lý chất lượng xét nghiệm y tế.
7 Bimedtech : ứng dụng công nghệ sản xuất chip sinh học phục vụ chẩn đoán một số bệnh ở người / Nguyễn Thị Thanh Tâm // .- 2021 .- Số 5(746) .- Tr. 37-38 .- 610
Phân tích ứng dụng chip sinh học Bimedtech vào chẩn đoán một số bệnh ở người. Chip sinh học được xem là thành tựu khoa học kỹ thuật của thế giới trong việc ứng dụng công nghệ nano vào lĩnh vực chẩn đoán y học. Các chip sinh học này như phòng thí nghiệm thu nhỏ, đủ khả năng thực hiện đồng thời hàng trăm, thậm chí hàng ngàn phản ứng xét nghiệm sinh hóa khác nhau. Tiến bộ này giúp các nhà nghiên cứu có những công cụ mới để khám phá những quy định sinh hóa phức tạp xảy ra bên trong tế bào, đồng thời giúp tiết kiệm thời gian và giảm chi phí cho người bệnh.
8 Số lần xét nghiệm cần thiết virus SARS-COV-2 để khẳng định một âm tính thật / Võ Nhân Văn, Nguyễn Phúc Minh Tú, Trần Bàn Thạch, Lưu Văn Hiền, Nguyễn Quang Vinh, Nguyễn Tấn Trung // Khoa học & Công nghệ Đại học Duy Tân .- 2021 .- Số 5 (48) .- Tr. 3-7 .- 616
Tromg bài báo này các dự đoán về kết quả xét nghiệm virus SARS-COV-2 sử dụng xác suất có điều kiện theo định lý Bayes sẽ được phân tích. Đầu tiên bài báo sẽ định nghĩa một số thuật ngữ được dùng trong dự đoán xác suất bị lây nhiễm Virus. Sau đó bài báo khảo sát một số ví dụ để phân tích việc dự đoán khả năng âm tính giả và dương tính giả về số lần xét nghiệm để đạt được xác suất âm tính thật là chính xác.
9 Đánh giá sự hài lòng của khách hàng về dịch vụ truyền máu và xét nghiệm sau 3 năm áp dụng tiêu chuẩn ISO 15189:2012 tại Trung tâm truyền máu Chợ Rẫy / Phạm Lê Nhật Minh, Nguyễn Việt Hải, Trần Văn Bảo, Nguyễn Trường Sơn // Y học thành phố Hồ Chí Minh (Điện tử) .- 2017 .- Số 3 .- Tr. 38-43 .- 610
Đánh giá sự hài lòng của khách hàng về dịch vụ truyền máu và xét nghiệm sau 3 năm áp dụng tiêu chuẩn ISO 15189:2012 tại trung tâm truyền máu Chợ Rẫy. Hầu hết các khách hàng hài lòng với dịch vụ truyền máu và xét nghiệm cảu trung tâm truyền máu. Việc áp dụng tiêu chuẩn ISO 15189:2012 vào dịch vụ truyền máu và xét nghiệm là sự lựa chọn đúng đắn và hợp lý. Qua đó giúp nâng cao chất lượng dịch vụ truyền máu, xét nghiệm và tinh thần, thái độ phục vụ khách hàng.
10 Thực trạng xét nghiệm HIV và một số yếu tố liên quan trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới tại Hà Nội năm 2017 / Nguyễn Khắc Hưởng, Vũ Thị Bích Hồng, Lê Minh Giang, Lê Thị Hường // .- 2019 .- Số 121(5) .- Tr. 112-122 .- 610
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện nhằm mô tả thực trạng xét nghiệm HIV cũng như một số yếu tố liên quan đến xét nghiệm HIV trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM) tại Hà Nội. Chọn mẫu theo phương pháp thời gian - địa điểm (TLS) với số liệu thu thập qua phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi cấu trúc trên 801 đối tượng nam tuổi từ 16 trở lên, sống tại Hà Nội ít nhất 3 tháng. Kết quả nghiên cứu cho thấy: 55,68% đã từng xét nghiệm HIV trong quá khứ; 44,32% chưa từng xét nghiệm. Nơi xét nghiệm HIV lần gần nhất của đối tượng là bệnh viện, tại cộng đồng, phòng khám ngoại trú,…Các lý do phổ biến khiến MSM không làm xét nghiệm HIV: tự cảm thấy không có nguy cơ nhiễm HIV, không có thời gian, không có tiền, sợ kết quả dương tính, kỳ thị từ nhân viên y tế… Có mối liên quan giữa một số yếu tố (nhân khẩu học, thu nhập, thời gian sống tại Hà Nội, tự kỳ thị, sử dụng rượu/bia, các chất gây nghiện…) với khả năng chưa từng xét nghiệm HIV của MSM (p < 0,05). Chưa làm xét nghiệm HIV còn khá phổ biến trong nhóm MSM ở Hà Nội xuất phát từ nhiều lý do khác nhau. Các phát hiện của chúng tôi nhấn mạnh nhu cầu cấp thiết có các chiến lược giáo dục, tuyên truyền về tầm quan trọng của xét nghiệm HIV cũng như các chương trình can thiệp nên được mở rộng và nhắm đúng mục tiêu, tập trung vào việc giảm đáng kể số lượng MSM chưa từng xét nghiệm HIV ở Hà Nội.